Sức
mạnh của lời nói
“Ai là
người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc,
thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa.” (1Pr 3, 10)
thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa.” (1Pr 3, 10)
Ý niệm
Cũng như tư tưởng là một sức mạnh tạo nên
những hệ quả lớn lao, thì lời nói cũng có một tác dụng khôn lường trên đời sống
con người. Tư tưởng thì thai nghén, còn lời nói thì sản sinh. Tư tưởng xấu thì
còn có thể ngăn chặn kịp, nhưng lời nói xấu thì không không thể thu hồi (x. Cn
25, 11). Tư tưởng chỉ tác động trên chính mình, lời nói cũng thế, nhưng nó còn
xâm nhập vào không gian và thời gian, tác động đến biết bao người, nên tục ngữ
có câu: “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.
Do đó, những gì ta phải nói thì hãy nói
với tất cả niềm tin tưởng trước cuộc sống của mình cũng như của người khác.
Niềm tin ấy không phát xuất một cách ngây ngô, mơ hồ, nhưng dựa vào chính Thiên
Chúa, Đấng đã khởi đầu cuộc sống mỗi người chúng ta. Chính Ngài đang tiến hành
và bảo lãnh cuộc đời ta giữa muôn vàn thế sự. Trong niềm tin vào Ngài, những
lời nói của ta có một giá trị sâu rộng và sức mạnh sáng tạo phi thường. Khoảnh
khắc mà ta nói ra một điều gì đó là ta đã sinh ra nó. Đây là một nguyên tắc
thiêng liêng, và nó sẽ thực hiện những gì mà ta đang nói dù điều đó tốt hay
xấu, cách tích cực hay tiêu cực.
Sự tung hoành của miệng
lưỡi
Cổ nhân có nói: “Bệnh tùng khẩu
nhập, họa tùng khẩu xuất”: Bệnh do miệng mà vào, họa do miệng mà ra. Nếu
không biết kềm chế miệng lưỡi thì nó sẽ gây ra muôn vàn điều ác hại. Chúng ta
có thực sự đạo đức hay không, điều đó được biểu hiện rõ ràng nhất trên miệng
lưỡi. Thánh Giacôbê đã cả quyết như sau: “Ai cho mình đạo đức mà
không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức
hão.” (Gc 1, 26 ).
Chúng ta hãy đọc lại đoạn Kinh Thánh sau
đây để thấy được sự tung hoành của miệng lưỡi kinh khủng như thế nào:
“Nếu ta tra hàm thiếc
vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân chúng.
Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong đẩy mạnh
thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của
người lái. Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân
thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé
dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi
cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa
các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy
bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. Thật thế, mọi loài thú
vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và
đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là
một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người.” (Gc 3, 3-8).
Ý
thức được sự nguy hiểm của miệng lưỡi, nên tác giả Thánh vịnh đã thốt
lên; “Xin canh giữ miệng con, lạy Chúa, và trông chừng lưỡi
con.” (Tv 141,3). Chính vì sự khó trị của cái lưỡi như vậy, mà
Thánh Giacôbê đã dám nói lên rằng: “Ai không vấp ngã về lời
nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kềm chế toàn thân.” (Gc 3,
2).
Hãy cẩn trọng với những
gì mình nói
“Người ta có đủ thời giờ
để lựa lời, nhưng không có cơ hội để rút lại” (S. Maugham). Biết được những đại
họa có thể gây ra do miệng lưỡi, ta phải cẩn trọng về những gì mình nói, nhất
là khi gặp những điều trái ý, gây bực tức và cản trở, ta càng dễ dàng bung ra
những lời nói bất chấp thì lại càng thêm hư hại. Lời nói là một khí cụ sắc bén
có thể làm chuyển đổi mọi tình trạng, nhưng nếu không cẩn trọng ta sẽ đả thương
chính mình hoặc người khác: “Lời nói bừa bãi khác nào mũi gươm
đâm.” (Cn 12, 18). Lời nói quả thực lợi hại vô
cùng, với ba tấc lưỡi người ta có thể lập nên cơ đồ, nhưng cũng có thể làm tiêu
tan cơ nghiệp; có thể xây dựng tất cả, nhưng cũng có thể phá đổ tất cả. Sự sống
và sự chết đều là sức mạnh của cái lưỡi, “Vinh hay nhục đều ở lời
nói cả” (Hc 5, 13).
Nói cách khác, ta tạo nên môi trường tốt
hay xấu, thuận lợi hay bất lợi, là do chính lời nói của ta. Nếu cứ luôn phàn
nàn, và hay nói những điều mình bực bội về người khác hoặc về những
tồi tệ đang xảy ra cho mình, thì ta cứ sống mãi trong thế giới khốn khổ và buồn
chán của mình. Ta muốn thoát ra, nhưng rồi lại cứ vùi mình vào đó bằng những
lời lẽ đen tối. Cũng một lời nói làm bế tắc đời sống, mà cũng một lời nói làm
đả thông cuộc sống, tại sao ta không biết cẩn trọng và sáng suốt để chọn lựa
một lối thoát để làm thay đổi tình trạng của mình. Thật ra, tình trạng nào cũng
là do tâm trạng mà ra, nhưng khi tâm trạng đang bị phủ lấp thì phải dùng phương
thế lời nói để kích hoạt lên. Đừng nói về những vấn đề, nhưng hãy nói về những
tiến bước; đừng nói về những cản trở, nhưng hãy nói đến những quyết tâm; đừng nói
về những tệ trạng, nhưng hãy nói về những hoạch định mới đầy tươi sáng.
Những rào cản chúng ta có thể là một cơn
bệnh, một sự nghèo túng, một quan hệ xấu, một trắc trở, một sự nguy hại, một
thất bại, một sự xúc phạm… nhưng hãy để cho mình được tự do vượt lên trên những
điều đó bằng những lời nói thanh cao, lạc quan, hy vọng, tin tưởng, vững vàng.
Những lời đó sẽ tạo nên trong ta một tâm trạng mới đầy phấn khởi, một bản lãnh
cương nghị, để vươn lên sau những thất thoát, dù rằng do mình, do người khác
hay do hoàn cảnh cũng vậy. Đó là điều mà Thánh Phaolô đã nói: “Tôi
cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt
nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. (2Cor
12, 10).
Đặt vào hoàn cảnh và tâm trạng của Thánh
Phaolô, đáng lý ta phải than phiền về những hoàn cảnh xui rủi hay ác ý của
người đời cứ đổ dồn lên mình; đáng lẽ ta phải cảm thấy buồn tủi, chán ngán vì
những gian nan thất bại cứ liên tiếp xảy đến. Đáng buồn hơn nữa là đang khi hết
lòng sống cho mọi người, thì dường như bị mọi người phủ nhận; đang hết lòng
phụng sự Chúa thì dường như bị Chúa quên đi. Thánh Phaolô không suy luận và
phát ngôn một cách tiêu cực, bi quan như thế, đó là lề thói tầm thường của
người đời. Bằng lời nói, Ngài cho thấy tính cách hoàn toàn mới mẻ của hoàn cảnh
dưới cái nhìn đức tin:
- Thay vì cảm thấy buồn thương trước
tình đời đen bạc, thì Ngài lại “cảm thấy vui sướng” vì
Đức Kitô.
- Thay vì bi quan trước sự yếu
đuối của mình thì lại cảm thấy “chính là lúc
tôi mạnh” trong quyền năng Chúa.
Dưới cái nhìn đức tin và quen sống cận kề
bên Chúa, ta sẽ học biết cách minh giải những sự việc xẩy ra nặng nề một cách
nhẹ nhàng, và giải tỏa những tình cảnh trái ngang một cách vui thỏa như Thánh
Phaolô, để trong những khi đen tối ta vẫn tìm ra con đường ánh sáng chan hòa
cho đời mình. Đừng nguyền rủa bóng tối nhưng hãy cất lời ca ngợi
cho ánh sáng đến. Đó là phép lạ nơi miệng lưỡi của ta. Nếu
muốn thay đổi thế giới chung quanh ta, thì hãy bắt đầu thay đổi lời ăn tiếng
nói của ta sao cho phù hợp với tâm tình và ý muốn tốt lành của Chúa. (x.
1Tm 4, 12).
Tác dụng của những ngôn
từ mà ta hay sử dụng
Những ngôn từ nào mà ta thường dùng, sẽ
làm nên một lối sống như vậy. Đừng bao giờ dùng những từ ngữ tiêu cực như:“chán
quá”, “sợ quá”, “chắc không thể”, “không hy vọng gì”, “chẳng thấy điều gì tốt
xảy ra cho tôi”, “mơ ước cũng chỉ là ước mơ…”hoặc những lời buồn nản, than
thân trách phận. Những lời nói đại loại như thế sẽ thao túng tâm hồn, làm mất
đi nghị lực và nhuệ khí của mình, ngăn bước ta tiến về phía trước. Con
sâu của sự chán nản và bi quan thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gặm nhấm tâm
hồn ta bằng những lời nói thụ động, tiêu cực dù vô tình hay cố ý, nhưng lại có
một âm hưởng quyết liệt về lâu về dài trên đời sống ta, và có thể gây suy nhược
tinh thần như một chứng bệnh kinh niên. Một cách nào đó, nhiều lần
chính ta là kẻ thù xấu nhất của mình. Ta coi thường mọi người và những điều
khác, nhưng sự thật là ta bị đầu độc bởi những lời do miệng lưỡi mình phát ra.
Chính trong tình trạng đó mà Kinh thánh nói rằng: “Cái lưỡi chính là
mối hoạ cho con người.” (Hc 5, 13).
Chúa không bao giờ muốn ta cứ lải nhải về
những bất trắc và đau khổ của mình. Ngài không muốn ta đi quanh quẩn để tranh
luận hoặc miêu tả về những hoàn cảnh tiêu cực của mình với những người khác.
Thay vào đó, Chúa muốn ta hãy dùng những lời nói mang tính cách xây dựng và
thay đổi hoàn cảnh của mình. Hãy biết nhìn thấy sự nhân lành của Chúa trong mọi
hoàn cảnh để vững tin và ứng dụng vào lời nói của mình. Thiên Chúa là sự nhân
lành, ở nơi Ngài chỉ có những sự tốt lành cho ta mà thôi. Mọi tình trạng xấu xảy
ra là do con người, nhưng nó nằm trong kế hoạch của Ngài trong từng bước thay
đổi và ổn định dần dần. Vì liên đới với mọi người, nên ta phải biết chấp nhận
hoàn cảnh chung trong từng giai đoạn, đồng thời phải biết kiên trì và ý thức
vươn lên không ngừng. Trong cùng một lúc, người muốn mưa, kẻ muốn nắng thì Chúa
phải làm thế nào đây ?
Vì thế, hãy biết dùng những lời nói đầy
tự tin và tích cực như: “mạnh dạn lên”, “can trường lên”, “cố lên”,
“phấn khởi lên”, “chẳng có gì phải sợ”, “hãy vững tâm và kiên cường”, “cứ nhìn
về phía trước”, “cứ bắt đầu lại”, “cứ nổ lực phấn đấu và hy vọng vào tương lai…
”. Những lời như thế sẽ gây phấn chấn tâm hồn, tăng thêm sinh lực và
sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Tự nhủ mình như thế nào thì hệ quả sẽ
ra thế ấy. Tự nhủ mình bằng những lời tốt đẹp thì sẽ đưa đến hiệu quả tốt
đẹp. Dù có khi không như ý mình muốn, nhưng lại như ý Chúa
muốn, “gặp thời thế, thế thời phải thế”, và chỉ có Chúa mới thấy
điều gì thật sự tốt đẹp cho mình trong từng giai đoạn và hoàn cảnh.
Điều quan trọng là dù thế nào đi nữa
nhưng tâm hồn ta vẫn thản nhiên, vẫn an vui, vẫn yêu người yêu đời, thấy nhân
cách và đức tin của mình lớn lên qua từng thử thách trong đời, không bị nao
núng và rối loạn; có thể không thành thân, nhưng thành nhân, đó mới là điều cao
quí mà Chúa muốn cho ta hơn hết trong mọi tình huống.
Dùng lời nói như phương
thế hữu hiệu cho đời mình
Hãy dùng lời nói như phương thế hữu hiệu
để chuyển hướng tiến tới trong cuộc sống, để mang cuộc sống đến những điều lớn
lao mà Thiên Chúa đang để dành cho ta. Thánh Phaolô nói rằng: “Quả
thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng,
mới được ơn cứu độ.” (Rm 10,10).
Đó là nguyên tắc có thể áp dụng vào mọi
lãnh vực khác. Khi ta tin vào Chúa, vào lời Ngài hứa cho những ai trung thành,
thì ta có thể an tâm và vững vàng nói lên những điều tốt đẹp cho cuộc sống mình
giữa những cảnh đời xáo trộn và nhiễu nhương. Hãy luôn tự nhủ mình bằng phương
pháp tự kỷ ám thị về những điều tốt đẹp sẽ xẩy ra. Mỗi ngày hãy chọn
lấy cho mình một câu lời Chúa hay một lời nguyện vắn tắt để luôn thì thầm trong
mọi lúc, theo từng hoàn cảnh. Sống với Chúa là như thế, ở với Chúa là như
vậy, để rồi lời Chúa trở thành lời mình, tính cách của Chúa trở thành tính cách
của mình, bởi vì đời mình đang được tác thành bởi Chúa và do Chúa mà thôi. Hãy
thật sự sống như thế để cảm thấy đời mình được hân hoan trong mọi lúc, và an
vui trong mọi sự, để mình luôn có thể thốt ra những lời tốt đẹp ở mọi nơi, và
luôn là những lời ân phúc cho mọi người.
Có điều cần để ý là không nên nói nhiều
về mình. Triết gia Aristote khuyên rằng: “Hoặc hay hoặc dở cũng đừng
bao giờ nói chuyện về mình”. Có nói thì nói điều tốt người ta làm cho mình,
chứ đừng nói điều tốt mình làm cho người. Trẻ nít bao giờ nó cũng nói về nó,
luôn khoe những điều nó có và đã làm được. Nó không cần biết đến người khác, và
cũng chẳng cần biết đến mối dây liên hệ. Người trưởng thành thì trái lại, luôn
biết hướng đến người khác để xác lập mối tương giao mỗi ngày sâu rộng hơn.
Trách nhiệm và hệ quả của lời ta nói trên đời sống người khác
Mỗi người chúng ta đều nhận chịu
những ảnh hưởng từ một số người nào đó như: ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn hữu…
Cũng vậy, tùy theo vị thế của mình trong gia đình và xã hội, ta cũng sẽ gây
những ảnh hưởng nhất định nào đó trên đời sống của những người thân thích và
chung quanh một cách tương tự như vậy. Do đó, ta có một trách nhiệm rất nặng nề
trước những gì mình nói đối với họ. Đời sống họ ra sao cũng một phần do lời nói
của chúng ta làm nên. Có những lời nói của ta làm họ ghi nhớ suốt đời: lời nói
tích cực làm cho họ an vui và phấn khởi xây dựng cuộc sống; lời nói tiêu cực
nếu nặng nề sẽ làm cho họ bị thương tâm, mặc cảm và oán hận mãi.
Hơn nữa nó còn phá hoại những khả năng và
ân sủng của Chúa đã được ban cho họ. Có ai thấy được hết được những hậu quả tàn
hại mà do lời nói tiêu cực của ta gây ra cho người khác. Thật ra, hậu quả người
khác phải gánh chịu vì lời nói ta, cũng chính là hậu quả ta phải gánh chịu
không trước thì sau: “Thương nhân chi ngữ, hoàn thị tự thương, hàm huyết
phún nhân tiên ô tự khẩu” (Văn Công): những lời nói hại người là tự
hại mình, chẳng khác chi ngậm máu phun người thì dơ miệng mình trước.
Chúa ban cho chúng ta miệng lưỡi, trước
tiên là để biết ca ngợi lòng thương xót Chúa trên đời sống của nhân loại, để
biết cảm tạ tôn vinh Chúa trong mọi hoàn cảnh. Đó là lý do mà Thánh Giacôbê
phản bác lại những lời nói gây xúc phạm đến đồng loại:“Ta dùng lưỡi mà
chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người
đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời
chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được. Chẳng
lẽ một mạch nước lại có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua
sao? Thưa anh em, làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ô-liu,
hoặc cây nho sinh trái vả? Nước mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt.”(Gc
3, 3-10)
Từ tính cách đó mà ta thấy
cốt yếu của lời nói với nhau là “để xây dựng, để khích lệ và an
ủi.” (1Cor 14, 3).“Lời nói mà không chủ ý làm cho cuộc đời tốt
đẹp hơn lên là lời nói hư không” (Roland Dorgeles). Chúa Giêsu còn cho
thấy mệnh hệ sau cùng của những lời ta nói: “Tôi nói cho
các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích
mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời
nói của anh mà anh sẽ bị kết án.” (Mt 12, 36-37).
Nhận thức được hậu quả đáng sợ như trên,
ta phải biết dùng lời nói mình như một lời yêu thương đem đến phúc lành cho
người khác, như Isaac xưa khi cất lời chúc lành cho Giacóp (x. St 27, 29).
Giacóp nhận biết rằng, những lời tốt lành mà Cha nói sẽ ảnh hưởng tốt đẹp suốt
quãng đời còn lại của ông. Do đó, dù ta biết hay không thì những lời nói của ta
có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của những người thân thích theo hướng tốt
hay xấu. Những lời ta nói có sức mạnh như những lời của Isaac vậy.
Nhiều khi không được như ý mình muốn,
hoặc vì thiển cận, hoặc vì đã quen thô bạo, mà ta dễ buông lời lẽ nặng nề mang
tính ngạo mạng, khinh khi. Những lời như vậy làm cho người khác mất hứng khởi,
nhụt chí, năng lực bị tan biến, làm tan nát cõi lòng, tạo nên những vết thương
sâu thẳm trong tâm hồn không biết bao giờ nguôi. Còn hơn thế nữa, những lời nói
mang tính cách hạ bệ, khinh miệt, làm cho người khác mất ý thức về những giá
trị mà Thiên Chúa đặt để trong họ, và bào mòn khả năng đóng góp của họ cho gia
đình cũng như xã hội.
Lạy Chúa, Chúa ban cho
con người có một khả năng ngôn ngữ tuyệt diệu để biết ca ngợi quyền năng Chúa
trên vũ trụ, và là một phương tiện hữu hiệu cho sự thông giao và diễn đạt chân
lý, để làm triển nở và tươi đẹp cho cuộc sống làm người.
Nhưng rồi nhiều khi con
đã sai lạc trong mục đích này, nên đưa đến nhiều thảm hại cho con, cho người.
Con chẳng thể nào đền bồi được những hư hại mà con đã gây ra cho anh chị em con
qua những lời lẽ nặng nề, khích bác, tiêu cực… Con muốn vui lòng nhận chịu
những khốn khó để xin Chúa bù đắp lại cho họ bằng những ân thiêng cao cả, để họ
có thể đạt tới một cuộc sống rạng ngời niềm vui và hạnh phúc.
Lời Thiên Chúa là Lời
sáng tạo và cứu độ trong Đức Giêsu Kitô Ngôi Lời. Chúa không chỉ nhập thể trong
thế gian, nhưng còn nhập thể trong chính thâm tâm con. Xin cho con biết đón
nhận và thấm nhập làm một với Ngôi Lời Chúa, để trong Chúa lời con
cũng được trở nên lời sáng tạo và là lời cứu độ cho sự sống của anh chị em con.
Amen.
Lm. Thái Nguyên