Không và có 1
Một chàng thanh niên đang đi kiếm mấy món hàng cần dùng trong siêu thị, anh để ý thấy một bà cụ cứ chăm chú nhìn mình. Thoạt tiên, anh phớt lờ, nghĩ rằng chẳng có gì và tiếp tục đi kiếm hàng. Khi anh đến quầy tính tiền, lại gặp bà cụ đang đứng ở đó. Anh lịch sự nhường cho bà đứng xếp hàng phía trước anh. “Xin cậu thứ lỗi”, bà nói, “Tôi thành thật xin lỗi đã nhìn chăm chú vào cậu, vì trông cậu rất giống người con trai của tôi vừa mới qua đời”. Động lòng trước bà cụ đáng thương, chàng thanh niên nói: “Thật đáng tiếc, má à. Con có thể làm được gì để giúp má không”? Bà cụ mỉm cười trả lời: “Cậu biết cái gì làm cho má cảm thấy an ủi hơn không? Con trai của má thường đi sắm đồ chung với má. Khi má ra về, cậu ấy thường nói: “Tạm biệt, Má”, Cậu có thể nói như vậy giống như con trai của má đang đứng ở đây với má thêm một lần nữa được không?” - “Được chứ, con rất vui vẻ nói mà, đâu có sao!” chàng thanh niên đơn sơ trả lời.
Sau khi gom tất cả mọi món đồ từ quầy tính tiền đặt vào bao, bà cụ ra về. Chàng thanh niên lớn tiếng chào, “Tạm biệt, Má!” Bà cụ mỉm cười, quay lại vẫy tay từ biệt. Rồi chàng thanh niên lấy những món đồ đã chọn từ trong giỏ để lên quầy tính tiền. Cô thâu ngân tính toán, rồi đưa hóa đơn cho anh . Tổng cộng là 140 đôla. Chàng thanh niên giật mình: “Xin lỗi cô, cái hoá đơn đâu có đúng. Tôi chỉ mua có vài món hàng. Nó chưa đến 25 đôla”.Cô thâu ngân liền đáp: “Má của anh đã nói với tôi rằng anh sẽ trả cho bà mà”. Chàng thanh niên lịch sự đã không biết đến những khía cạnh phức tạp, đen tối của trái tim con người. Ngay cả những người già cũng có thể lừa đảo bằng những lời gian dối quanh co!
Con người là tạo vật phức tạp. Phức tạp trong trái tim. Phức tạp trong đời sống. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói lên sự phức tạp trong trái tim con người qua dụ ngôn hai người con. Người cha thương lượng với hai anh em về việc đi làm trong vườn nho. Một người từ chối không đi làm, nhưng đã đi. Người kia chấp nhận đi làm, nhưng lại không đi!
Trong cuốn “The Cultural World of Jesus”, John J. Pilch nói rằng một nhà truyền giáo ở Trung Đông đã thường dùng dụ ngôn hai người con để chia sẻ Phúc Âm với những người dân làng nơi ông đến thăm viếng, và hỏi họ: “Người con nào tốt hơn?” Đại đa số đã trả lời người con thứ hai thưa vâng nhưng đã không đi làm vườn nho là người con tốt hơn. Sự trả lời của người con này đã làm vinh danh và kính trọng người cha. Đây là điều người cha muốn được nghe. Đối với người Trung Đông, danh giá là chủ yếu, còn việc người con có đi làm hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc.
John Pilch nói tiếp: “Hãy nhớ rằng đời sống ở Trung Đông là đời sống cộng đồng. Giá trị chủ yếu của nền văn hoá này là danh giá cần phải được công bố công khai. Câu chuyện đối thoại giữa người cha và hai người con trong dụ ngôn này không xảy ra ở nơi riêng tư, nhưng ở nơi công cộng, dưới sự quan sát và lắng nghe của nhiều người trong làng. Giống như con cháu của họ ngày nay, những người dân làng Trung Đông trong dụ ngôn ưa thích người con biết kính trọng người cha mặc dù không vâng lời hơn là người con bất kính nhưng vâng lời”.
Trong nền văn hoá Trung Đông, đối với John Pilch, danh dự của người cha được quần chúng xác nhận qua lời tuyên bố công khai của con cái. Người con thưa vâng đã trả lời một cách kính trọng, và trong sự phán đoán của quần chúng, lệnh của người cha có giá trị, danh dự của ông được bảo vệ. Ngược lại, người con thưa không đã phỉ báng và công khai hạ nhục uy tín của người cha. Nhưng John Pilch cũng xin lưu ý ở điểm này: “Chúa Giêsu đã không hỏi người con nào thể hiện danh giá của người cha? Người hỏi: “Người con nào đã làmtheo ý muốn của người chả” Những người Trung Đông hiện đại cũng chấp nhận phán đoán của khán giả lắng nghe lời Chúa: “Người con thứ nhất”, là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Họ nhìn nhận tầm quan trọng của sự vâng lời, nhưng cũng coi trọng cả danh dự nữa”.
Sự phức tạp trong dụ ngôn này là điều rắc rối trong trái tim của con người. Người con thứ nhất thật lòng không muốn đi, thưa không, nhưng nghĩ lại đã ân hận vì làm sỉ nhục danh giá của cha, đành đổi ý, ra đi làm việc. Còn người con thứ hai chỉ muốn giữ danh giá bề ngoài cho cha, thưa vâng cho qua chuyện, rồi không giữ lời hứa.Hứa bằng lời nói thôi cũng chưa đủ, phải có hành động cụ thể.
Không và có 2
Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắngnghe , rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi”. Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:
1. Thưa không với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm: Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói không với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa.
Thánh Phaolô là một gương sáng. Khi Phaolô mới nghe biết về Chúa Kitô, về Phúc Âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolô hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và huỷ diệt Phúc Âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường điDamascus . Phaolô đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolô đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.
2. Thưa vâng với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã không đi làm: Theo John Pilch, các thầy thượng tế và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan tẩy giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống.
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus , có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsrerdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng … một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này? Những người liên can đến vụ này là ai? ..., Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh?”
3. Nhất quyết thưa không với Thiên Chúa:
Đây là loại người có thái độ cương quyết nói không với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.
4. “Con Người” luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa:
Con Người luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta.
Người đã được thánh Phaolô diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho nước trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “thưa vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời.