PHI LỘ – Là Kitô hữu, chúng ta không lạ gì với những cách nói “lạ” về
Thập Giá, nhưng có thể chúng ta chỉ hiểu tổng quát chứ chưa sâu sắc đủ để chúng
ta mê Thập Giá, mến Thánh Giá, và say đau khổ. Đau khổ là mối phúc, nhưng chúng
ta chưa dám chấp nhận. TS Peter Kreeft có cách so sánh vừa cụ thể vừa dễ hiểu, vừa
khôi hài vừa nghiêm túc, có thể tạo sự thú vị và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
mầu nhiệm đau khổ. Thiết nghĩ đây là tài liệu quý để chúng ta có thể làm vốn
sống mà thăng tiến trên hành trình đức tin. Xin mời bạn “xuất thần” để trở nên
“yếu đuối” và nhập vào sự đau khổ cùng với Đức Giêsu Kitô.
Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh, sức mạnh tạo sự hoàn hảo trong sự yếu đuối.
Đó là nói về “bí quyết” trưởng thành tâm linh, nhưng chúng ta có thực sự hiểu câu
đó nói về cái gì? Ai có thể hiểu?
Nếu chúng ta không hiểu, Thiên Chúa
sẽ không cho chúng ta biết. Ngài không lãng phí từ ngữ. Đó là mầu nhiệm, nhưng
mầu nhiệm không là điều chúng ta không thể hiểu, mà là điều chúng ta không thể
hiểu bằng lý lẽ, nếu không được Thiên Chúa mặc khải. Đó cũng là điều chúng ta
không thể hiểu hết, nhưng là điều chúng ta có thể hiểu phần nào đó. Hiểu một
phần không là hoàn toàn tối tăm. Chúng ta có thể thấy qua tấm kiếng.
Bí quyết để mạnh mẽ tạo sự hoàn hảo
trong sự yếu đuối là Thập Giá của Đức Kitô. Không có Thập Giá thì không có mầu
nhiệm, mà chỉ là bóng tối và ngu xuẩn.
Nhưng những người ngoài Kitô giáo
như các nhà thần bí Trung quốc và Lão Tử có vẻ hiểu bí ẩn của sức mạnh tạo sự
hoàn hảo trong sự yếu đuối khá sâu sắc, ít là về một số lĩnh vực nào đó, dù họ
không biết Đức Kitô hoặc Thập Giá.
Có thể họ hiểu một mầu nhiệm tương
tự và có liên quan nhưng không tương tự. Hoặc có thể họ cũng hiểu điều đó qua
Đức Kitô và Thập Giá, dù họ không ý thức và rõ ràng. Làm sao chúng ta biết đâu
là biên độ của Thập Giá? Nhánh Thập Giá rất dài và rộng. Đức Kitô là “ánh sáng
thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9) nhờ sự mặc khải tự
nhiên, sự khôn ngoan tự nhiên, và theo luật tự nhiên bởi lương tâm. Khi Lão Tử,
Socrates, hoặc Đức Phật hiểu sâu được sự thật vĩnh hằng, họ cũng làm vậy nhờ
Ánh Sáng của Đức Kitô, Ngôi Lời vĩnh hằng, Ngôi Lời trước khi hóa thành nhục
thể, hoặc được Thiên Chúa mặc khải. Ngài là Ngôi Vị nhưng không theo bản tính
nhân loại. Tất cả sự thật đều là sự thật.
Nhưng Chúa Giêsu nhập thể là sự mặc
khải của Thiên Chúa, diện mạo Thiên Chúa hướng về chúng ta trong sự thân thiết
nhất. Chúng ta biết thêm về một người qua khuôn mặt hơn các phần khác trên cơ thể.
Như vậy hãy nhìn vào sự mặc khải của Thiên Chúa – Đức Kitô và Thập Giá – để cố
gắng hiểu được điều nghịch lý của sức mạnh có từ sự yếu đuối. Chúng ta thắc mắc:
Làm sao sự yếu đuối làm chúng ta mạnh mẽ nhờ Thập Giá? Làm sao sự yếu đuối của
Thập Giá có thể làm chúng ta mạnh mẽ?
Có hai vấn đề. Thứ nhất là lý
thuyết và không thể trả lời, thứ nhì là thực tế và có thể trả lời.
Vấn đề thứ nhất: Điều đó tác động
thế nào? Nhờ kỹ thuật tâm linh siêu nhiên nào mà sự yếu đuối sản sinh sức mạnh?
Thập Giá tác động như thế nào?
Các thần học gia đã làm việc về vấn
đề này gần 2.000 năm, và không có sự đồng tâm nhất trí trong Kitô giáo, không
có câu trả lời chính xác, mà chỉ có sự tương tự. Thánh An-sen-mô có cách hiểu
tương tự về sự dữ chiếm hữu chúng ta và Đức Kitô đã trả giá cứu chuộc chúng ta.
Các giáo phụ thời sơ khai có cách tương tự về cuộc chiến vũ trụ: Đức Kitô chiếm
lãnh địa của ma quỷ – trước tiên là thế gian, vào đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, thế
giới ngầm bị bại trận, ác thần bị đánh bại, kẻ thù là tội lỗi và sự chết bị
đánh bại.
Vấn đề thứ nhì có thể trả lời rõ
ràng hơn. Đó là vấn đề thực tế: Làm sao chúng ta sống? Làm sao tôi xử lý sự yếu
đuối? Làm sao tôi vác thập giá trong cuộc đời? Đó không là kỳ lạ mà là sự thật nhập
thể, không chỉ là sự kiện độc nhất vô nhị bên ngoài tôi nhưng ở trong không
gian và thời gian tại Ít-ra-en năm 29 (sau công nguyên), cách xa tôi hàng ngàn
dặm và cả hai ngàn năm qua, nhưng đó vẫn là sự kiện tiếp diễn ở trong tôi.
Có hai cái sai khi trả lời câu hỏi
này: Làm sao tôi thực hiện Mầu Nhiệm Thập Giá trong cuộc đời tôi? Đó là chủ
nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa ẩn dật, chủ nghĩa tích cực và chủ nghĩa tiêu cực. Chủ
nghĩa nhân đạo nói rằng đó là hành động của con người, chúng ta phải chiến đấu và
vượt qua sự yếu đuối, thất bại, bệt tật, đau khổ và sự chết. Nhưng rồi chúng ta
chẳng làm được. Chủ nghĩa nhân đạo là Don Quixote chỉ cưỡi ngựa mà dám chiến
đấu với xe tăng.
Chủ nghĩa ẩn dật cũng là thuyết
định mệnh, nói rằng hãy chịu đưng và chấp nhận. Nói cách khác, đừng làm người. Hãy cứ
“xả láng sáng về sớm”, đừng chống lại ánh sáng yếu ớt!
Kitô giáo có tính nghịch lý hơn chủ
nghĩa nhân đạo hoặc thuyết định mệnh. Có nghịch lý gấp đôi trong cách trả lời
của Kitô giáo về sự nghèo khó, đau khổ và sự chết. Sự nghèo khó trái ngược với
sự thoải mái, nhưng lại được chúc lành. Giúp người nghèo thóa cảnh khổ là một trong
các nhiệm vụ chính của các Kitô hữu. Nếu chúng ta tứ chối, chúng ta không là
Kitô hữu, chúng ta không được cứu độ (x. Mt 25:41-46). Chính người giàu mới
đáng thương, như Mẹ Teresa nói tại ĐH Harvard: “Đừng bảo đất nước tôi nghèo. Ấn Độ không là nước nghèo. Nước Mỹ mới là
nước nghèo, nghèo về tâm linh”. Người giàu rất khó được cứu độ (x. Mt
19:23), nghèo tâm linh là muốn nghèo. Những người tách khỏi của cải thì được
chúc phúc (x. Mt 5:3).
Nghịch lý tương tự trong Kitô giáo
là về sự chết. Sự chết là kẻ thù nguy hiểm nhất, nhưng là “kẻ thù cuối cùng bị
tiêu diệt” (x. Cr 15:26), là dấu vết và hình phạt của tội lỗi. Đức Kitô đến để
chiến thắng nó. Sự chết cũng là cửa ngõ vào sự sống đời đời, vào Nước Trời. Đó
là “chiếc xe ngựa vàng” của Hoàng Đế gởi tới để đón cô dâu Lọ Lem.
Đau khổ cũng là một nghịch lý. Một
mặt đó là bị căng thẳng, một mặt là được chúc phúc. Các thánh nên thánh chủ yếu
với hai lý do: Có lòng yêu thương tới mức anh hùng và chạnh lòng thương người
lân cận. Họ trao tặng chính họ để làm giảm đau khổ của người khác. Nhưng
họ cũng yêu Chúa tới mức vui chịu đau khổ một cách can trường. Họ vừa chiến đấu
vừa chấp nhận đau khổ. Họ năng động hơn những người theo chủ nghĩa nhân đạo và
chủ nghĩa ẩn dật. Cả ba thứ (nghèo khó, sự chết và đau khổ) đều là các dạng yếu
đuối. Sự yếu đuối là vấn đề tổng quát và phổ biến. Chẳng hạn, đau khổ tự nó
không chấp nhận là yếu đuối, vì chúng ta ôm chặt đau khổ như lúc sinh con nếu
được chọn, theo sức của chúng ta – nhưng các đau khổ nhỏ và sự không thoải mái,
chúng ta cảm thấy bị xúc phạm và không chịu nổi nếu chúng xảy đến trái ý chúng
ta. Chúng ta sẽ chạy cho xa. Kierkegaard nói: “Nếu tôi có người đầy tớ khiêm nhường, khi tôi xin ly nước mà anh ta
lại đem tới ly rượu ngon, tôi đuổi việc anh ta liền, tôi cho anh ta biết rằng niềm
vui đích thực là được như ý”.
Đệ tử giỏi của tâm lý gia Freud là
Alfred Adler đã chia sẻ với sư phụ về vấn đề chính: Đâu là ước muốn cơ bản của con người? Đó không là niềm vui, như
Freud tưởng, mà là sức mạnh theo cách nghĩ của Adler.
Ngay cả Thánh Thomas Aquinas, Tiến
sĩ Giáo hội, cũng mặc nhiên đồng ý, vì khi ngài xem xét và loại trừ mọi ứng
sinh có tính sùng bái và không tương xứng đối với vị thế hạnh phúc cao nhất của
con người, của mọi vật mà chúng ta theo đuổi thay vì Thiên Chúa, thánh nhân nói
rằng chúng ta bị thu hút tới sức mạnh vì nó có vẻ thần thánh nhất. Tuy nhiên, đây
là sai lầm vì sức mạnh của Thiên Chúa là sự hoàn thiện của Ngài. Sức mạnh là câu
trả lời của Thánh Augustinô về lý do ngài ăn cắp những trái lên hồi ngài còn
nhỏ. Không phải ngài muốn có niềm vui hoặc tiền bạc, mà là sức mạnh – sức mạnh
không theo luật “chớ trộm cắp”, sức mạnh bất tuân luật pháp và lấy nó đi. Chúng
ta bị giày vò vì bị kiềm chế.
Cuối cùng, chúng ta chỉ là những
thụ tạo chứ không là tạo hóa, hữu hạn chứ không vô hạn, hay chết chứ không bất
tử, ngu dốt chứ không thông suốt mọi thứ. Tất cả những thứ đó là sự yếu đuối, không
ngẫu nhiên và có thể tránh nhưng đó là sự yếu đuối bẩm sinh và thuộc bản chất
đối với mọi thụ tạo. Khi thù hận, sự hạn chế của sự yếu đuối khiến chúng ta tức
giận.
Trước khi chúng ta phân biết sức
mạnh với sự yếu đuối, chúng ta phải nhìn sâu và nhìn kỹ vấn đề. Có ba sự yếu
đuối liên quan nhưng khác biệt.
Thứ nhất, có sự yếu đuối của ngón
lừa thứ nhì, phản ứng mạnh hơn là đề xướng, theo sau hơn là dẫn đầu, vâng lời
hơn là ra lệnh. Sự tức giận của chúng ta đối với vấn đề này là hoàn toàn ngu
xuẩn, vì chính Thiên Chúa bao gồm sự yếu đuối này! Chúa Con vâng lời Chúa Cha
đời đời. Dđiều Ngài thực hiện trên thế gian thì Ngài cũng thực hiện đời đời. Không
ai có thể tuân phục hơn Đức Kitô.
Do đó, vâng lời không là thấp kém. Đức
Kitô chính là Thiên Chúa và cũng là người vâng lời tuyệt đối. Về vấn đề này,
chúng ta có sự cách mạng gây ngạc nhiên và nền tảng mà thế gian chưa từng biết,
không thể hiểu. Phụ nữ nổi loạn vì họ là nữ giới, nghĩa là về sinh học họ tiếp
nhận sự thụ thai từ nam giới, cần nam giới bảo vệ và lãnh đạo, vì họ nghĩ điều
đó khiến họ yếu thế. Con cái nổi loạn vì phải vâng lời cha mẹ, nhân dân nổi
loạn vì phải vâng lời chính quyền, con cái và nhân dân đều nghĩ như vậy là yếu
kém. Nhưng không phải như vậy!
Đức Kitô đồng đẳng với Chúa Cha về
mọi thứ, nhưng Đức Kitô tuân phục Chúa Cha. Sự khác biệt trong vai trò không có
nghĩa là khác biệt về giá trị. “Sự yếu đuối” của sự vâng lời không đến từ vị
trí thấp mà đến từ sự bình đẳng về giá trị.
Con cái cũng vâng lời cha mẹ. Nhưng
con cái không thấp kém hơn cha mẹ về luân lý hoặc tâm linh. Lệnh vâng lời không
hạ thấp mà làm cho tự do – nếu chúng ta nói về sự vâng lời “trong Đức Kitô”. Trên
thế gian, sức mạnh cai trị, và người mạnh hơn người yếu. Do đó, sự vâng lời
thực sự là sự yếu kém về quyền lực. Nhưng trong Giáo hội không như vậy. Mọi thứ
đều khác hẳn: “Anh em biết: thủ lãnh các
dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản
dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải
làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.
Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ
và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:25-28).
Chúa Giêsu đồng đẳng với Chúa Cha, nhưng
Ngài vâng lời. Nếu đó là sự thật đơn giản nhưng mang tính cách mạng thì được
nhận biết và được đánh giá cao, chúng ta sẽ có một thế giới mới – không phải
thế giới cũ của sự nô lệ và áp bức, cũng không phải thế giới Tây phương hiện
đại của sự tiêu diệt và rối loạn, của sự cạnh tranh không tự nhiên và nổi loạn.
Thay vì vậy, chúng ta có tình yêu thương.
Tình yêu tạo sức mạnh. “Sự yếu đuối”
của Đức Kitô khi vâng lời Chúa Cha đã làm cho Ngài mạnh mẽ vì đó là sự tuân
phục của tình yêu. Nếu Đức Kitô không tuân phục Thánh Ý Chúa Cha khi Satan cám
dỗ Ngài nơi hoang địa, Ngài sẽ mất sức mạnh, như Samson đã mất sức mạnh, và khuất
phục trước kẻ thù. Đức tuân phục của Ngài đánh dấu thần tính của Ngài. Và chúng
ta cũng vậy: Nếu chúng ta hoàn toàn vâng lời Chúa Cha, chúng ta sẽ được biến
đổi thành những người được dự vào thần tính của Ngài. Sự ăn năn, tín thác, và
Bí tích Thánh Tẩy là ba khí cụ giúp “chuyển đổi”, là các dạng vâng lời. Chúng
ta được mời gọi sám hối, tin tưởng, và tái sinh.
Dạng “yếu đuối” thứ nhì chỉ riêng
chúng ta thôi, không liên quan Đức Kitô, nhưng dạng thứ nhì này cũng không tức
giận. Đó là tình hữu hạn của và tính thụ tạo của chúng ta. Chúng ta được tạo
nên, do đó chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa về mọi thứ, chính sự hiện hữu của
chúng ta và mọi thứ khác. Chúng ta chẳng
sở hữu chi cả vì chính con người chúng ta cũng không là của chúng ta. Thiên Chúa sở hữu chúng ta. Do đó, tự
tử là trộm cướp. Chúng ta không có quyền gì đối với Thiên Chúa. Không thụ tạo
nào có quyền đó, kể cả các tổng lãnh thiên thần.
Không thụ tạo nào có quyền tuyệt
đối, cũng chẳng thụ tạo nào hoàn toàn bất lực. Dù là thiên thần cũng không thể
tạo nên vũ trụ hoặc cứu một linh hồn, nhưng dù một hạt cát cũng có thể chứng tỏ
Thiên Chúa, có thể làm ngứa ngón chân và có thể quyết định chiến tranh.
Sự yếu đuối là sự phụ thuộc lẫn
nhau, sự đoàn kết, sự hợp tác, sự vị tha. Thánh Phaolô nói: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy
là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6:2). Tôi nghĩ rằng câu “luật của Đức
Kitô” còn hơn là lệnh vâng lời của Đức Kitô, tôi nghĩ đó là sự sống của Đức
Kitô hằng sống. Tôi nghĩ rằng luật của Đức Kitô giống như định luật vạn vật hấp
dẫn hơn là luật trọng lực của đất. Trái táo rơi hoàn tất định luật vạn vật hấp
dẫn, và “mang gánh nặng lẫn nhau là chu toàn luật của Đức Kitô”.
Hôn nhân là ví dụ về việc mang gánh
nặng lẫn nhau. Đàn ông cần đàn bà, như Thiên Chúa nhận thấy khi tạo thiên lập
địa: “Con người ở một mình không tốt” (St
2:18). Và đàn bà cần đàn ông. Cả hai thường nổi giận vì nhu cầu đó ngày nay.
Đó là sự nổi loạn chống lại Luật của Đức Kitô, luật này được ghi khắc trong luật
tự nhiên của con người. Kinh Thánh nói: “Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo
hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1:27).
Cuối cùng là dạng thứ ba của sự yếu
đuối. Đó là sự yếu đuối của tội lỗi và hậu quả của nó. Thật tốt khi bị hạn chế
nhưng đừng sa ngã. Chúng ta hoàn toàn bất thường, không phải về tình trạng tự
nhiên. Chúng ta nổi loạn với chính mình, vì những gì chúng ta không tự nhiên, đó
không phải do Thiên Chúa tạo nên. Sự bất mãn của chúng ta về sự yếu đuối luân
lý và tâm linh mặc nhiên làm chứng sự hiểu biết của chúng ta về điều gì đó tốt
hơn – tiêu chuẩn chúng ta đưa ra về cuộc sống và về thế giới, và chúng ta khao
khát. Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa
trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với
lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh” (St 3:24).
Vì chúng ta yếu đuối về luân lý mà
chúng ta phải cầu nguyện “để khỏi sa chước cám dỗ” (Mc 14:38), nghĩa là khỏi bị
thử thách và khỏi gặp khó khăn. Chúng ta có điều cần lưu ý: “Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại
thì không ai được cứu thoát; nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy
sẽ được rút ngắn” (Mt 24:22).
Chúng ta không chỉ yếu đuối về luân
lý mà còn yếu đuối về trí tuệ: ngu dốt, ngốc nghếch, dại dột. Tội lỗi không chỉ
là ngu xuẩn như Plato dạy, chắc chắn nguyên nhân của nó cũng không chỉ là ngu
ngốc như Plato dạy, mà còn là nguyên nhân của tội lỗi, đó là hậu quả của tội
lỗi.
Cũng vậy, thân xác chúng ta yếu
đuối vì tội lỗi. Khi linh hồn tuyên bố không lệ thuộc Thiên Chúa, nguồn sống và
sức mạnh, thân xác trở nên yếu đuối vì không còn lệ thuộc linh hồn, nguồn sống
của thân xác. Như vậy, sự chết là hậu quả của tội lỗi. Nó như nam châm vậy. Thiên
Chúa là cục nam châm giữ hai “vòng thép” là thân xác và linh hồn gắn chặt với
nhau. Lấy cục nam châm ra, hai vòng sẽ rời nhau. Khi chúng ta xa cáh Thiên Chúa,
chúng ta chỉ có nước chết chắc. Khi chúng ta có Thiên Chúa, chúng ta sẽ sống và
sống dồi dào (Ga 10:10).
Chúng ta phải chấp nhận việc vâng
lời Chúa Cha là “sự yếu đuối” đầu tiên của chúng ta, và chúng ta phải chấp nhận
sự hữu hạn của mình là “sự yếu đuối” thứ nhì, nhưng liệu chúng ta có nên chấp
nhận “sự yếu đuối” thứ ba là tội lỗi của chúng ta? CÓ và KHÔNG. Tội lỗi như
bệnh ung thư, là “cái chết được báo trước”. Khi bị ung thư, chúng ta phải chấp
nhận phũ phàng đó, dù muốn hay không. Chúng ta phải chấp nhận sự thật đó, nhưng
không chấp nhận “tính tốt” của ung thư, vì ung thư không tốt. Hãy chấp nhận nó
về lý thuyết, nhưng không chấp nhận nó về thực tế, mà hãy chống lại nó. Về tội
lỗi cũng vậy!
Người ta thường lầm lẫn về điểm này.
Ngay cả một trí tuệ lớn như Carl Jung cũng có vẻ lầm lẫn về điểm này khi ông
bảo chúng ta “chấp nhận mặt trái đen tối”. Không! Thiên Chúa phải chịu đau khổ
và chết để cứu chúng ta khỏi “mặt tối” đó. Làm sao chúng ta dám “chấp nhận” nó khi
Đấng Thánh đã tuyên bố chống lại nó vĩnh viễn? Làm sao chúng ta dám trung lập khi
Thiên Chúa phản đối? Làm sao chúng ta dám chơi trò đỏ đen? Chỉ có một số phận đúng
cho sự yếu đuối tâm linh như vậy. Hãy nghe Thiên Chúa nói: “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng
hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra
khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16). Điều Thiên Chúa đã mửa ra thì chẳng ai dám ăn!
Sự yếu đuối của chúng ta trở thành sức
mạnh của chúng ta khi Thiên Chúa vào trong sự yếu đuối của chúng ta: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr
12:10). Như bác sĩ gây mê để bệnh nhân thụ động, không còn co giật khi được
phẫu thuật, Thiên Chúa làm cho chúng ta yếu đuối để Ngài có thể hành động trên
chúng ta.
Đây là sự thật về sự chết. Cái chết
là phẫu thuật căn gốc, chúng ta phải được “gây mê” để chịu mổ xẻ. Thiên Chúa
muốn chúng ta thấu suốt tâm hồn của chúng ta, nội tâm của chúng ta. Tim của
chúng ta phải ngưng đập để được Thiên Chúa “phẩu thuật”.
Quy luật tương tự cũng tác động nhẹ
hơn trước khi chết, trong những lần “tiểu tử” (little death, “chết nhỏ”). Thiên
Chúa phải làm chúng ta “bất tỉnh” trước để cứu chúng ta không bị “chết đuối”, vì
chúng ta ngu xuẩn. Ngài phải vỗ vào đồ chơi, như chúng ta dụ đồ chơi với trẻ
em, để chúng ta vui mừng.
Vậy là quá tốt. Quy luật đó khá rõ
ràng. Nhưng khi chúng ta trở lại với các nhà thần bí và đọc các ngôn ngữ lạ của
họ về việc “trở nên như không” (becoming nothing), hoàn toàn yếu đuối, chúng ta
lắc đầu chẳng hiểu gì và nghi ngờ. Nhưng các nhà thần bí muốn nói về “hư vô” (nothingness
– tương tự Phật giáo gọi là “vô vi”) trước khi Thiên Chúa là “không”, nhưng quy
luật tương tự cũng được áp dụng với kết luận hợp lý. Nếu sức mạnh của Thiên
Chúa lấp đầy chúng ta khi chúng ta yếu đuối, và sự vĩ đại của Thiên Chúa lấp
đầy chúng ta khi chúng ta bé nhỏ, chính Thiên Chúa sẽ lấp đầy chúng ta khi
chúng ta là “số không” – tức là yếu đuối hoàn toàn.
Nhưng chúng ta phải phân biệt hai
loại “hư vô”. Các nhà thần bí Đông phương nói rằng linh hồn là “hư vô” vì không
có thật. Họ thấy qua “ảo giác của cá nhân” (illusion of individuality). Họ nói
rằng chúng ta không thực sự là thụ tạo, mà là chính Thiên Chúa. Vì tất cả đều
là Thiên Chúa nếu chúng ta là người theo thuyết phiếm thần (pantheist, coi
Thiên Chúa và vũ trụ giống nhau). Đó là sai lầm, vì cho rằng Thiên Chúa đã tạo
nên chúng ta khác với Ngài. Sự thật minh nhiên: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1:27). Và sau Đại Hồng Thủy, Thiên
Chúa hứa với ông Nô-ê: “Ai đổ máu con
người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo
hình ảnh Thiên Chúa” (St 9:6).
“Hư vô” của nhà thần bí Kitô giáo
là sự hư vô của sự không bướng bỉnh và sự ý thức về bản thân. “Xin Ý Cha nên
trọn chứ không phải ý con” là nền tảng đối với mọi sự thánh. Không có gì là
thần bí về điều đó. Nhưng khi được Thiên Chúa chiếm hữu trong sự nếm thử Nước
Trời qua thị kiến, nhà thần bí cũng mất ý thức về bản thân, có vẻ trở thành hư
vô, vì người đó không còn nhìn vào mình, mà chỉ nhìn vào Thiên Chúa. Nhưng dĩ
nhiên là Ngài vẫn ở đó, vì phải có chính mình mới có thể quên mình. Ai quên? Chắc
chắn không phải Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng toàn trí toàn thức, không thể quên.
Nhà thần bí Kitô giáo trải nghiệm
niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh khi họ hoàn toàn yếu đuối và ở tình trạng “hư vô”, điều
này hoàn toàn tin tưởng, hoàn toàn thư giãn trong vòng tay của Thiên Chúa, được
cất lời “Abba, lạy Cha”. Mọi lo lắng đều tan biến. Đó là sự khiêm tốn hoàn
toàn, hèn mọn hoàn toàn. Sự kiêu ngạo là
tội lỗi đầu tiên, tội do quỷ nhập, do đó mà sự khiêm nhường là nhân đức đầu
tiên.
Kiêu ngạo không có nghĩa là ý kiến
thái quá về sự xứng đáng của mình, mà là hư ảo, tự cao tự đại. Kiêu ngạo nghĩa
là “chơi” Thiên Chúa, đòi hỏi bằng Thiên Chúa. Satan đã “dụ” bà Eva: “Chẳng chết chóc gì đâu” (St 3:4). Thế
là con người “chơi tới bến” luôn! Trong phim “Thiên Đàng Đã Mất” (Paradise Lost,
đạo diễn Milton), Satan tự nhủ: “Nên cai
quản Hỏa ngục hơn là cai quản Thiên đàng”. Đó là công thức của lòng kiêu
ngạo. Rõ ràng kiêu ngạo là “hoàn toàn theo ý tôi”. Vì thế, đừng bao giờ “xin được như ý”.
Khiêm nhường là “xin Ý Cha nên trọn”.
Khiêm nhường là tập trung vào Thiên Chúa, chứ không tập trung vào mình. Khiêm
nhường không là hạ mình thái quá. Khiêm nhường là quên mình. Người khiêm nhường
không bao giờ nói người khác thế này: “Bạn
tệ thật đấy!”. Người khiêm nhường luôn “bận” nghĩ tới người khác. Đó là lý
do khiêm nhường là niềm vui và rất gần với việc thị kiến xuất thần, vì lúc đó
chúng ta chỉ chú ý tới Thiên Chúa và hoàn toàn quên mình, như các nhà thần bí
vậy. Kết hợp hai điều này – hoàn toàn “không muốn theo ý mình” và quên mình,
chúng ta có thể bắt đầu hiểu cách mà các nhà thần bí vui sướng khi trở nên “hư
vô”. Đó là niềm vui thần thánh mà chúng ta cảm thấy khi chúng ta cầu xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến!”.
Rất khó nói về sự xuất thần. Đôi
khi có vẻ ngớ ngẩn. Và rất dễ bị hiểu lầm. Không thể giải thích bằng phàm ngôn.
Giống như khi yêu, đó là ý tưởng, nhưng không giải thích được. Đó là kinh
nghiệm, là cuộc sống.
Thập Giá liên quan điều này như thế
nào? Ngoài việc cứu chúng ta khỏi tội lỗi, Thập Giá còn biểu lộ bản chất trạng
thái xuất thần Tam vị Nhất thể của Thiên Chúa (God’s Trinitarian ecstasy), Chúa
Thánh Thần nhiệm xuất từ tình yêu mầu nhiệm giữa Chúa Cha và Chúa Con, bí ẩn đời
sống nội tâm của Thiên Chúa. Thập Giá được Thiên Chúa hoạch định như một lưỡi
gươm trên đất của Đồi Can-vê và hướng thẳng lên trời. Thập Giá tạo cuộc chiến
chống lại tội lỗi và sự chết, nhưng lại diễn tả sự hòa bình và sự sống đời đời.
“Xin Ý Cha nên trọn, đừng theo ý
con” không chỉ là điều khó thực hiện (vì tội ngăn cản chúng ta), nhưng đó cũng
là điều vui mừng nhất và tự do nhất mà chúng ta có thể làm (nhờ ân sủng được
ban cho chúng ta). Cả tỷ kinh nghiệm đã chứng tỏ điều này: Bất kỳ lúc nào chúng
ta kiếm tìm hạnh phúc nhờ sức riêng thì chúng ta lại không hạnh phúc, dù chúng
ta đạt được điều mình muốn hay không. Nếu chúng ta đạt được điều đó, chúng ta
lại chán ngay; nếu chúng ta không đạt được, chúng ta thấy thất vọng. Nhưng khi
chúng ta trở nên “hư vô”, hoàn toàn yếu đuối, khi chúng ta chân thành “xin Ý
Cha nên trọn, đừng theo ý con”, chúng ta sẽ có hạnh phúc, niềm vui và bình an. Nhưng
mặc dù có hàng tỷ kinh nghiệm đã được xác định về sự thật này, chúng ta vẫn
tiếp tục có những kinh nghiệm khác về hạnh phúc ngoài Thiên Chúa và ngoài sự
tùng phục Thiên Chúa, do đó chúng ta lại bán linh hồn cho quỷ dữ. Nói cách khác,
chúng ta lại điên rồ vì phạm tội. Tội lỗi là sự điên rồ!
Tâm điểm của Hồi giáo là sự thật
mạnh mẽ mà chúng ta đã thấy. “Hồi giáo” có hai nghĩa: “Sự tùng phục” và “sự
bình an” (cùng gốc với “shalom”). Tùng
phục Thiên Chúa (Allah, Đấng duy nhất) là
con đường dẫn tới hòa bình. Thi sĩ Dante diễn tả bằng một câu thơ mà T.S.
Eliot gọi là hoàn hảo nhất và sâu sắc nhất trong văn chương: “Thánh Ý Ngài là bình an của chúng ta”.
Sự yếu đuối này lại chính là sức
mạnh của Thiên Chúa, bí mật về quyền vô hạn tuyệt đối của Thiên Chúa. Thiên
Chúa vô hạn tuyệt đối vì Ngài có thể tạo dựng vũ trụ hoặc làm những phép lạ. Thiên
Chúa vô hạn tuyệt đối vì Ngài là tình
yêu, vì Ngài có thể tự hữu (tự sinh), vì Ngài có thể trở nên yếu đuối. Người vô
thần không thể hiểu nổi, chỉ có Kitô hữu mới có thể hiểu bí mật của sự vô hạn
tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất không thể không vô hạn
tuyệt đối. Chỉ có Thiên Chúa Ba Ngôi mới có thể tiếp tục tự trút chính Ngài, và
có thể vô hạn tuyệt đối.
Chúng ta thường nghĩ về Chúa Cha là
nguồn của sự vô hạn tuyệt đối, nhưng cả Ba Ngôi đều như vậy. Sự vô hạn tuyệt
đối chỉ phát sinh khi chúng ta đến với Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu nhiệm
xuất của Chúa Cha và Chúa Con. Khi Thần Khí này vào trong chúng ta, cả Ba Ngôi
cũng vào trong chúng ta, sống động trong chúng ta. Thập Giá vinh quang của Tam
Vị Nhất Thể vĩnh hằng và Thập Giá đẫm máu trên đồi Can-vê hòa quyện trong linh
hồn và cuộc sống của chúng ta khi chúng ta tham dự vào niềm vui của tình yêu
Thiên Chúa và sự đau khổ của tình yêu cứu độ.