Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Lời sống hôm nay 17/11/2014

Filled under:

17/11/14 THỨ HAI TUẦN 33 TN
Th. Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri Lc 18,35-43
LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU CHỮA ANH
“- Lạy ông Giê-su con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! - Anh muốn tôi làm gì cho anh ? - Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy ! - Anh hãy thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 18,38-42)
Suy niệm: Trong việc Chúa chữa người mù hôm nay, có một thông điệp cần được lưu tâm và đào sâu thích đáng. Chúa Giê-su không nói: “Ta cứu chữa anh”, nhưng Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” Người cho thấy tác nhân của sự cứu chữa là chính lòng tin của đương sự. Và đây không phải là lần duy nhất Chúa Giê-su tuyên bố điều này. Chúa cũng đã nói như thế: với người đàn bà bị băng huyết (Lc 8,48), với ông đại đội trưởng Rô-ma (Mt 8,13), với hai anh mù (Mt 9,29), với người phụ nữ Ca-na-an có đứa con gái bị quỉ ám (Mt 15,28), v.v... Sau này, thánh Phao-lô sẽ xác nhận mạnh mẽ rằng vai trò chữa lành và cứu độ thuộc về đức tin chứ không thuộc về Lề Luật (x. Rm 1,16-11.36; Gl 3,15-29).
Mời Bạn: Xác tín vững chắc rằng lòng tin vào Đức Ki-tô đồng nghĩa với sự chữa lành. Ơn cứu độ của Thiên Chúa đã dành sẵn cho chúng ta nơi Đức Ki-tô, như một tấm ngân phiếu đã ký sẵn! Chỉ cần điền thêm lòng tin của chúng ta. Lòng tin của chúng ta sẽ cứu chữa chúng ta!
Sống Lời Chúa: Đừng vội thắc mắc tại sao Chúa không chữa lành cho mình về bệnh này tật nọ. Bạn đang cần sự chữa trị loại nào (thể lý, tâm lý, tâm linh)? Và bạn hãy tự hỏi lòng tin của mình vào Thầy Thuốc Giê-su đang ở mức nào. (Chẳng hạn, bạn đánh giá thế nào về ý nghĩa của mỗi lần mình rước lễ?)
Cầu nguyện: Đọc Kinh Xin Chúa Thương Xót, với tất cả lòng thành, mỗi câu 2 lần.

 
Ngày 17 tháng 11
THÁNH ELISABÉT HUNGARI
Elisabét sinh năm 1204 giữa cảnh phồn hoa náo nhiệt trong triều đình vua Anrê II, nước Hungari. Ai cũng tưởng rằng đời Elisabét sẽ là đời sống trên nhung lụa, nhưng thực tế đã trái hẳn với sự phán đoán của loài người.
Thời ấy, vua xứ Turinge nước Đức mở yến tiệc khoản đãi những công hầu khanh tướng có công với nhà vua. Đang bữa tiệc, vua cho triệu tập một nghệ sĩ đến ngâm thơ ca hát giúp vui và trình bày những chiến thuật cho khách tiệc nghe. Sau khi ca hát, nghệ sĩ nọ như được ơn soi sáng đã tâu lên rằng: "Tâu bệ hạ, hạ thần vừa nhận được một tin mới và lại là tin rất vui mừng: đêm vừa qua Hoàng hậu nước Hungari vừa sinh hạ một công chúa, công chúa ấy lớn lên sẽ sánh duyên cùng hoàng tử của bệ hạ. Nàng sẽ nên thánh cả và sẽ làm rạng danh Giáo hội và nước Hungari. Nhà vua nghe vậy rất bỡ ngỡ, vì Turinge cách xa nước Hungari trăn ngàn dặm đường; như vậy làm sao nghệ sĩ kia có thể biết được nếu không phải Đức Chúa Trời đã soi sáng cho. Vì thế vua xứ Turinge cấp tốc sai sứ giả đến xem xét tình thế thực hư ra sao… Quả thật, sứ giả đã gặp đúng y như lời nghệ sĩ kia nói trước.
Mặc dầu Elisabét còn ít tuổi, nhưng lòng đạo đức của cô đã đánh động nhiều người, nhiều chàng con những công hầu khanh tướng đã rắp ranh muốn được kết tóc xe duyên với cô. Thấy vậy, vua xứ Turinge đã cho phái đoàn sang Hungari mối lái để xin cưới công chúa cho hoàng tử Louis.
Nghĩ đến việc trở về đoàn tụ với hoàng tử Louis, lòng Êlisabét nao nao buồn, phần vì phải xa cha mẹ, phần vì thấy cuộc đời xa hoa nơi cung điện nguy nga hầu như không hợp với tâm hồn mình, Êlisabét muốn sống một cuộc đời nghèo nàn để dễ thương giúp những người cùng cực, xấu số, bệnh hoạn mà xã hội đã bỏ rơi. Nhưng phải vâng lệnh vua cha, công chúa Êlisabét đã ngậm ngùi bước lên xe hoa về Turinge giữa một đám rước vô cùng linh đình do triều đình tổ chức. Sống trong lâu đài lộng lẫy nguy nga, Êlisabét lại muốn bắt chước cảnh sống Đức Mẹ ở Nagiarét xưa, nên hằng ngày thánh nữ vẫn làm tất cả những việc tầm thường của một tôi tớ trong triều như giặt quần áo, quét nhà, dọn bàn... Chả thế mà lúc ấy có người đã nói rằng: công chúa mà hãm mình cầu nguyện hơn cả vị tu hành.
Cuộc sống khem khổ của Êlisabét đã nhiều lần làm cho chồng phải bực mình, nhưng khi Êlisabét biện bạch thì hoàng tử Louis lại lấy làm cảm phục cuộc sống như thế. Do đó, dần dà chồng cũng nhiễm lây tinh thần đạo hạnh của vợ và làm cho cả nước phải trầm trồ khen ngợi. Trong khi còn sống trong hoàng triều, nhiều lần thánh nữ đã trốn vua cha ra đi mang theo tiền bạc, đến sống trong những nhà mồ côi để tắm rửa, vỗ về những đứa trẻ bạc số. Tâm hồn thánh nữ lúc nào cũng hướng về những người đói khổ, nhưng địa vị xã hội chưa cho phép ngài được sống hòa lộn với họ. Vì thế, ngày đêm thánh nữ hằng cầu nguyện để được thi hành ý định ấy.
Thiên Chúa nào có phụ những tâm hồn có thiện chí. Thực vậy, khi vua cha băng hà, hoàng tử Louis lên nối ngôi. Lúc này thánh nữ được dễ dàng giúp đỡ những người cùng quẫn nhiều hơn, vì vua Louis cũng tán thành những công việc từ thiện của thánh nữ. Chẳng bao lâu, Êlisabét đã xây được một nhà thương đồ sộ ở ngay bên cạnh hoàng cung, có thể dung nạp được mấy trăm bệnh nhân, lại có khu nuôi dưỡng những người nghèo khổ hay già cả. Hằng ngày thánh nữ coi việc đi an ủi, giúp đỡ những bệnh nhân là một món ăn thích thú cho tâm hồn. Người ta thuật lại rằng: một hôm, khi Êlisabét ra khỏi cung điện, mang theo hoa quả, bánh trái cho bệnh nhân, vua bắt gặp, liền âu yếm hỏi: "Em đi đâu và mang theo gì đấỷ". Thánh nữ liền mở vạt áo choàng cho chồng xem thì chỉ thấy toàn là những hoa hồng tươi đẹp tỏa mùi hương thơm lạ lùng.
Bấy giờ là mùa đông, hoa lá đều tàn trụi cả, vua Louis nhận biết đó là ơn Chúa ban cho gia đình mình, nên càng đem lòng kính nể, yêu thương hoàng hậu và trao tất cả của cải trong triều để thánh nữ tự do sử dụng mà làm việc thiện. Có lẽ thánh nữ đã say mê lời Chúa Giêsu: "Con làm điều gì cho kẻ rốt hết trong những người này là làm cho Cha vậy", nên ngài thường hay đi đó đây để lượm lặt những trẻ bị bỏ rơi mang về nhà săn sóc, nuôi nấng.
Có lần gặp một đứa trẻ bị phong cùi, mình mẩy chốc lở hôi thối, thánh nữ đã bế mang về tắm rửa, lau chùi, nuôi nấng cẩn thận trong buồng mình. Hoàng thái hậu thấy vậy lấy làm khó chịu, nói với vua phải vào buồng Hoàng hậu đem đứa trẻ sang viện mồ côi cho người ta nuôi nấng. Vừa vào buồng, tới gần giường đứa trẻ nằm, thì không thấy đứa trẻ đâu mà chỉ thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang nằm trên giường, mắt mở to, âu yếm nhìn hoàng thái hậu và vua Louis. Cảm động, cả hai quỳ phục dưới đất thờ lạy Chúa Giêsu. Khi ngửa mặt lên, họ chỉ còn thấy đứa trẻ đang oe oe khóc… Hai người không dám thi hành ý định ấy nữa.
Được toàn quyền sử dụng tiền của trong hoàng cung, thánh nữ đã cho xây một nhà dòng dâng cho các cha dòng Phanxicô, và thánh nữ đã xin nhập dòng Ba. Sau sáu năm sống trong hoàng triều, Êlisabét đã sinh hạ được hai trai hai gái. Cảnh gia đình vẫn ấm cúng, dân chúng được thịnh vượng no ấm, người người hoan hỉ ca tụng công đức của hoàng hậu. Nhưng Chúa muốn chiếm đoạt tâm hồn Êlisabét cho trọn vẹn, nên đã để ngài phải chịu nhiều thử thách cam go.
Lúc ấy Hoàng đế nước Đức muốn triệu tập các vua chư hầu sang Giêrusalem đánh quân Hồi hồi để lấy lại đất thánh đã bị địch quân chiếm giữ. Vua Louis cũng tạm trao quyền cai dân trị nước cho người em là Henricô để lên đường chinh phạt quân Hồi giáo. Êlisabét cũng tiễn chân vua Louis hai ngày, rồi trở về hoàng cung nuôi nấng con cái. Nào ai biết đấy là cuộc vĩnh biệt giữa hoàng hậu và Hoàng đế! Tin Hoàng đế bị địch quân giết chết đã như tiếng sét đánh ngang tai, làm hoàng hậu chết ngất đi hồi lâu. Nhưng thánh nữ không hề mở miệng kêu trách một lời mà chỉ nguyện vâng theo ý Thiên Chúa.
Từ đây ngài muốn cuộc đời còn lại thành một của lễ hy sinh để đền tội cho dân chúng. Nghe tin anh đã chết, vua Henricô chính thức lên chiếm ngai vàng, và vì sợ mấy cậu bé kia lớn lên sẽ cản trở cho ngai báu của mình, nên ông đã lên mặt nạt nộ và tống cổ mẹ con Êlisabét ra khỏi triều đình. Êlisabét ra đi với hai bàn tay trắng; những người trước kia đã được thánh nữ giúp đỡ nay trở mặt chửi bới, sỉ nhục người thiếu phụ góa bụa ấy. Không tìm được chỗ trú thân, mẹ con Êlisabét phải vào trú nhờ trong một chuồng ngựa của một nhà phú hộ. Trong túp lều ấy, thánh nữ đã cảm thấy Chúa Giêsu gần gũi mình hơn trước. Lần đầu tiên bước chân vào chuồng ngựa, ngài đã thốt lên những lời sốt sắng cảm động: "Lạy Chúa, xưa Chúa đã sinh ra khó nghèo trong chuồng trâu bò, bây giờ con cũng gặp cảnh ấy vì tội lỗi con; trước đây con đã ước ao được giũ sạch những quyến rũ của cải trần gian, nay Chúa đã cho con được như ý nguyện, con xin cảm tạ lòng nhân lành Chúa, xin cho con được vâng theo ý Chúa luôn luôn". Rồi hai tháng liền như vậy, ngày ngày thánh nữ phải ra chợ ăn xin để nuôi con.
Bên quê nhà nghe biết sự thể ấy, vua cha Êlisabét bực mình hết sức, đã toan đem binh sang chinh phạt vua Henricô. Nhưng đoàn quân trước kia đi theo vua Louis trở về bắt vua Henricô phải trả lại ngôi báu cho con chính thức của vua Louis. Sợ ngoại bang xâm chiếm, lo lòng dân oán hờn, vua Henricô đã ăn năn hối hận và rước mẹ con Êlisabét về và trao trả ngôi vua cho người con cả.
Thánh nữ tha thứ tất cả. Trở về cung điện ít lâu, rồi ngài ra ở nơi hẻo lánh, ngày đêm hãm mình cầu nguyện và giúp đỡ bệnh nhân trong các nhà thương. Cuộc đời thánh nữ cứ kéo dài trong những công việc âm thầm lặng lẽ ấy. Năm 1231, sau hơn một tháng nằm tê liệt trên giường bệnh, thánh nữ đã nhè nhẹ thở than: "Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con". Rồi ngài từ trần trong một gian nhà lụp xụp. Thánh nữ Êlisabét đã bỏ tất cả để theo Chúa thì ngài cũng đã nhận được tất cả. Vì thế, ngày ngài qua đời, gian nhà nhỏ bé kia đã trở nên như một bầu trời trong sáng đầy hương hoa thơm ngát.



Posted By Đỗ Lộc Sơn13:28

Sống trọn vẹn từng ngày. Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay, vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.

Filled under:

Trong một buổi diễn thuyết vào đầu năm học, Brian Dison – tổng giám đốc của tập đoàn Coca Cola, đã nói chuyện với sinh viên về mối tương quan giữa nghề nghiệp, với những trách nhiệm khác của con người.
Cuộc đời như một trò chơi tung hứng. Trong tay bạn có năm quả bóng mang tên: công việc, gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần.
Công việc là một quả bóng cao su,khi bạn làm rơi xuống đất, nó sẽ nẩy lên lại.
Nhưng còn bốn quả bóng kia đều là những quả bóng thủy tinh. Nếu bạn lỡ tay đánh rơi, chúng sẽ bị trầy xước, có tỳ vết, bị nứt, hư hỏng hoặc thậm chí bị vỡ mà không thể sửa chữa được. Chúng không bao giờ trở lại như cũ. Bạn hãy hiểu điều đó, để cố gắng phấn đấu giữ sự quân bình trong cuộc sống của bạn.
Phải làm thế nào đây?
Bạn đừng tự hạ thấp giá trị của mình, bằng cách so sánh mình với người khác, vì mỗi chúng ta là những con người hoàn toàn khác nhau. Mỗi chúng ta là một cá nhân đặc biệt.
Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn, vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ có bạn mới biết rõ điều gì tốt nhất cho chính mình.
Chớ nên thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim bạn. Bởi vì nếu không có chúng, cuộc sống của bạn phần nào sẽ mất đi ý nghĩa.
Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay, vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.
Chớ bỏ cuộc, khi bạn vẫn còn điều gì đó để cho đi. Không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc, khi ta thôi không cố gắng nữa.
Bạn chớ ngại mạo hiểm. Nhờ mạo hiểm với những cơ hội của đời mình, mà bạn biết cách sống dũng cảm.
Bạn chớ khóa kín lòng mình với tình yêu, bằng cách nói bạn không có thời gian yêu ai. Cách nhanh nhất để nhận được tình yêu, là hãy cho đi. Cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu, là níu giữ thật chặt. Còn phương cách tốt nhất để giữ được tình yêu, là bạn hãy chắp cho nó đôi cánh.
Bạn chớ băng qua cuộc đời nhanh đến nỗi, không những bạn quên mất nơi mình đang sống, mà còn có khi quên cả nơi mình định tới.
Bạn chớ quên nhu cầu tình cảm lớn nhất của con người, là cảm thấy mình được đánh giá đúng.
Bạn chớ ngại học. Kiến thức không có trọng lượng, nó là kho báu mà bạn luôn mang theo bên mình một cách dễ dàng.
Bạn chớ phí phạm thời giờ hoặc lời nói, một cách vô trách nhiệm. Cả hai điều đó một khi mất đi sẽ không bao giờ lấy lại được.
Cuộc đời không phải là đường chạy.
Nó là một lộ trình, mà bạn phải thưởng thức từng chặng đường mình đi qua.
 

Posted By Đỗ Lộc Sơn03:17

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Những ngôi thánh đường tuyệt đẹp trên thế giới

Filled under:

Las Laras Sanctuary – Colombia
churches
Basilica of the National Vow – Quito, Ecuador
churches
Cadet Chapel at the Air Force Academy – Colorado
churches
Cathedral of Christ the Saviour – Moscow, Russia
churchesCathedral-Basilica – New OrleanschurchesChurch of Dmitry on Blood – Uglich, Russiachurches
Church of Our Savior – St. Petersburg, Russia
churches
Church of Assumption – Bled Lake, Slovenia
churches
Asis Church – New Mexico
churches
Church of Panagia – Santorini, Greece
churches
Collegiate Church of Notre-Dame – Dinant, Belgium
churches
Crystal Cathedral – Grove, California
churches
Heddal Stave Church – Norway
churches
LaSagrada Familia – Spain
churches
Lutheran Church of Hallgrimur – Iceland
churches
Cathedral of Our Lady Aparecida – Brasilia, Brazil
churches
Nuestra Nenora de Gracia – Cuenca, Spain
churches
Our Lady of Covadonga Cathedral – Spain
churches
Sacre-Coeur Basilica – Paris
churches
Yosemite Valley Chapel – Yosemite National Park
churches
Saint Peter’s Basilica – Rome
churches
Salisbury Cathedral – Britain
churches
St. Basil’s – Moscow, Russia
churches
St. Michaels Cathedral – Kiev, Ukraine
churches
St. Vinzenz Church – Austria
churches
Temple of the Church of Jesus Christ of Latter-day Saints – San Diego, California


churches

Posted By Đỗ Lộc Sơn16:37

Nhà nguyện Thánh Kinga trong Mỏ Muối

Filled under:



Tối ngày 29/10/2014, chúng tôi vội vã đến thăm Mỏ Muối (Salt Mine) như lịch trình quy định từ trước. Đây là một mỏ muối lâu đời nhất và lớn nhất trên thế giới. Có rất nhiều du khách đến thăm Mỏ Muối này, trong đó có Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II lúc còn là Karol Wojtyla. Năm 1978, mỏ muối Wieliczka này được chọn là Di Sản Quốc Tế trong danh sách của UNESCO.
Theo lời kể của hướng dẫn viên thì những người làm việc trong Mỏ Muối là những người có đặc quyền, tức là có lợi tức lớn. Đó cũng là nghề cha truyền con nối trong gia đình. Muối lúc đó rất hiếm hoi và được xem như là vàng trắng (white gold).
Trong mỏ muối này có đến 40 nhà nguyện. Sở dĩ người ta làm nhiều nhà nguyện vì tình trạng làm việc ở mỏ muối rất nguy hiểm, có khi trần nhà bị sập, đè chết người. Vì thế người ta cầu nguyện liên lỉ nơi các nhà nguyện.
Nhà nguyện Thánh Kinga mà hãng du lịch dành cho nhóm chúng tôi dâng lễ là một nhà nguyện lớn nhất. Tại đây có âm nhạc rất hay và có đèn với nhiều mầu sắc.
Đây là công trình xây dựng tuyệt hảo trọn đời của một nhà thầu xây cất. Sau khi ông ta chết đi thì người em của ông tiếp tục công trình dang dở của người anh.
Phải mất mấy ngày thì du khách mới đi thăm hết diện tích của Mỏ Muối này. Tại đó có nhiều khu thương mại sầm uất. Ngoài ra, còn có những hồ nước nhân tạo. Nhóm chúng tôi chỉ mới thăm được khoảng 3 tầng của mỏ muối này.
Nguời ta kể về huyền thoại của vị thánh quan thầy của mỏ muối là Thánh Nữ Kinga. Tương truyền rằng Thánh Kinga ném chiếc nhẫn đính hôn của bà xuống một mỏ muối tên Maramures ở nước Hungary. Chiếc nhẫn đính hôn này trôi đi tới mỏ muối vùng Wieliczka và người ta đã lượm được chiếc nhẫn của bà tại đó.
Nhà nguyện của Thánh Kinga được xây cất khi một người  thợ mỏ muối tìm được chiếc nhẫn của bà. Thánh Kinga nước Ba Lan sinh ngày 5 tháng 3 năm 1224 và mất ngày 24/7/1292. Bà là Thánh Quan Thầy của nước Ba Lan và nước Lithuania.
Thánh Kinga sinh ở vùng Esztergom, Vương Quốc Hungary. Bà là ái nữ của vua Béla IV nước Hungary và hoàng hậu Maria Laskarina. Bà là cháu gái của Thánh Elizabeth nước Hungary và chắt của Thánh Hedwig. Các chị em của thánh Kinga là Thánh Margaret nước Hungary và Chân Phước Jolenta nước Ba Lan.
Thánh Kinga miễn cưỡng kết hôn với hoàng tử Bolesław V ("the Chaste"). Bà trở nên công chúa khi chồng bà lên ngôi Hoàng Tử của vùng Cracow. Dù kết hôn nhưng cả hai đều sống khiết tịnh và không gần nhau. Họ bắt chước gương sáng của người cô của Thánh Kinga là Chân Phước Salome thành Cracow.
Thánh Kinga đã tham gia nhiều công tác bác ái giúp đỡ người nghèo và người phong cùi. Khi chồng bà chết vào năm 1279, bà đã bán tất cả của cải vật chất và tặng cho người nghèo. Bà vào tu viện Thánh Clara ỏ vùng Sandec (Stary Sącz) và dâng cuộc đời cho Chúa. Bà sống cuộc sống chiêm niệm và không cho ai được nhắc đến quyền lực Công Nương nước Ba Lan của bà. Bà qua đời ngày 24/7/1292, ở tuổi 68.
Sau đó, nhóm chúng tôi ăn cơm tối ở một nhà hàng Ba Lan thuần tuý. Tại đây ngườita biểu diễn dân vũ và những bài dân ca của Ba Lan. Chúng tôi hòa đồng và cùng nhẩy múa với các ca sĩ. Tạ ơn Chúa cho một ngày bình an và đầy ân phúc!
Kim Hà
14/11/2014

Posted By Đỗ Lộc Sơn15:32

Đức Thánh Cha Kêu Gọi Các Bác Sĩ Công Giáo

Filled under:

Đức Thánh Cha kêu gọi các bác sĩ Công Giáo
VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các bác sĩ Công Giáo chống lại quan niệm ”thương xót giả tạo” ngày nay khiến người ta giúp phá thai, làm cho chết êm dịu và ”sản xuất con cái”.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiếp sáng ngày 15-11-2014 dành cho 5 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ của Hội bác sĩ Công Giáo Italia nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Hội. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Fiorenzo Angelini, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, bà Bộ trưởng sức khỏe của Italia, Beatrice Lorenzin, và nhiều trẻ em, bệnh nhân và thân nhân của họ.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC khẳng định rằng ”Tư tưởng thịnh hành ngày nay nhiều lần đề nghị một thứ ”thương xót giả tạo”: cho rằng phá thai là giúp đỡ phụ nữ, làm cho chết êm dịu là một hành vi hợp với phẩm giá con người, coi như một chinh phục khoa học khi ”sản xuất” một đứa con mà người ta coi là một quyền thay vì đón nhận người con như một món quà, hoặc dùng sinh mạng con người như con vật trong phòng thí nghiệm, gọi là để cứu vớt những sinh mạng khác”.
ĐTC minh định rằng: ”Lòng thương xót theo tinh thần Tin Mừng là lòng từ bi tháp tùng trong lúc cần thiết, tức là lòng từ bi của người Samaritano Nhân Lành, nhìn thấy, cảm thương, lại gần và giúp đỡ cụ thể (Xc Lc 10,33). Sứ mạng của anh chị em như bác sĩ đặt anh chị em hằng ngày tiếp xúc với bao nhiêu hình thức đau khổ: Tôi khích lệ anh chị em hãy trợ giúp những người khổ đau khi những người Samaritano nhân lành, đặc biệt quan tâm săn sóc những người già, bệnh nhân và người tàn tật. Lòng trung thành với Tin Mừng sự sống và tôn trọng sự sống như hồng ân của Chúa, nhiều khi đòi anh chị em những chọn lựa can đảm và đi ngược dòng, và trong những hoàn cảnh đặc biệt, có thể đi tới độ phản kháng lương tâm”. (SD 15-11-2014)
G. Trần Đức Anh OP

Posted By Đỗ Lộc Sơn15:22

Lời sống hôm nay 16/11/2014

Filled under:

16/11/14 CHÚA NHẬT TUẦN 33 TN – A
Kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam Mt 25,14-30
NIỀM VUI CỦA THIÊN CHÚA
“Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.” (Mt 25,21)
Suy niệm: 1/ Ông chủ trong dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài giao cho mỗi người một phận vụ và không đòi hỏi ai quá sức mình. Ngài không coi trọng người được giao năm yến hon người được giao một yến. Tài sản Ngài có bao nhiêu, Ngài giao tất cả. Hết sức tin tưởng. Ngài lên đường đi xa. 2/ Có vẻ như cái lỗi lớn nhất của người đầy tớ thứ ba là không làm việc, không sinh lời. Xét kỹ hơn, nguyên nhân sâu xa chi phối những hành động này là anh ta đã có một hình ảnh méo mó về Thiên Chúa: đối với anh, ông chủ là một người hà khắc, đòi hỏi, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Anh sợ hãi chứ không yêu mến. 3/ Ngày tính sổ, Thiên Chúa – ông chủ – xuất hiện như một người Cha: vui mừng thấy vốn đã sinh lời. Nhưng… Ngài không giữ lại cho mình, mà giao hết cả vốn lẫn lãi cho người biết làm việc; ai sinh lời Ngài lại ban thêm. Niềm vui của Ngài, đó là thấy rằng chúng ta đã làm việc và sinh lời cho chính chúng ta.
Mời Bạn: Những gì bạn đang có chính là những yến bạc mà Thiên Chúa giao cho bạn để sinh lời. Đối với bạn Thiên Chúa là ai, là ông chủ hà khắc hay là Người Cha yêu thương?
Chia sẻ: Có phải Thiên Chúa đã bất công khi lấy yến bạc của người đầy tớ thứ ba mà giao cho người có mười yến không? Nếu người này sinh lời, đâu là lời khen mà anh sẽ nhận được?
Sống Lời Chúa: Chu toàn bổn phận của ngày hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm cho con lòng tin tưởng và yêu mến, đừng để con nhìn xuôi ngó ngược, phân bì với người khác, nhưng hết lòng hết sức thi hành phận vụ Chúa đã giao.
Ngày 16 tháng 11
THÁNH MAGARITA HOÀNG HẬU XỨ SCỐTLEN
THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH
THÁNH MAGARITA HOÀNG HẬU XỨ SCỐTLEN
(+1093)
"Duyên sắc nở trên miệng người. Vì Thiên Chúa đã chúc phúc cho người đời đời và trong huy hoàng mỹ lệ, người vui sướng tiến lên và thống trị".
Phải chăng Giáo hội còn lời nào đẹp hơn để ca khen các nữ tôi tớ của Thiên Chúa, và cách riêng thánh nữ Magarita mà chúng ta đọc truyện hôm nay!
Tuy ra đời giữa lúc gia đình gặp cảnh lưu vong, Magarita vẫn được may mắn sống những ngày thơ ấu êm đềm và hưởng thụ một nền giáo dục chu đáo về hai phương diện trí dục và đức dục.
Năm 1054, lúc đó Magarita lên 10 tuổi, vua Canút băng hà, gia đình Magarita trở về nước. Nhưng không được mấy năm thì ông cậu ngài là thánh Êđua qua đời và những vụ sát hại lại lan tràn. Nhiều cuộc tranh chấp giữa Harold và Guillaume Normandi xảy ra, bắt buộc gia đình thánh nữ lại phải di cư sang miền Scốtlen. Trên đường đi, cha ngài từ trần, phủ lên đầu thánh nữ tấm khăn tang đầy đau xót.
Sang tới Scốtlen, cả gia đình Magarita được vua Malcolm III đón tiếp nồng hậu. Sự giúp đỡ của nhà vua và nhân dân bản xứ đã băng bó vết thương của cả gia đình trong cảnh lưu lạc… Hơn thế, quãng năm 1070, nhà vua còn ngỏ ý xin cưới Magarita. Tâm đầu ý hợp, một lễ "cưới quốc gia" được cử hành rất trọng thể tại Dunfermline trong ba ngày. Dân chúng Scốtlen hân hoan đón tiếp tân Hoàng hậu vừa có nhan sắc lại vừa có đức hạnh.
Trong cuộc đời mới, Magarita hằng tâm niệm sẽ chu toàn bổn phận của một người vợ, người mẹ và Hoàng hậu hầu thánh hóa bản thân và làm gương sáng cho mọi người. Quả thế, nếu trước khi lập gia đình, thánh Magarita nổi tiếng là một thiếu nữ thánh thiện, duyên dáng trong đoan trang, dịu hiền trong bác ái, thì từ khi lãnh sứ mệnh mới, ngài càng tỏ ra xứng đáng với ơn Chúa và sự mong đợi của mọi người. Chép lịch sử triều vua Malcolm III, một sử gia đã viết: "Xứ Scốtlen cường thịnh nhờ có quân vương Malcolm III, tài khéo và chính trực, nhất là nhờ ở một bà Hoàng hậu, kể được là duy nhất trong lịch sử, với nhiều nhân đức cao cả. Chính ngài đã giúp đỡ nhà vua, làm gương cho các quan và lôi cuốn toàn dân tiến vào con đường ánh sáng". Thực vậy, nhờ sự khuyên bảo của Hoàng hậu, nhà vua không bao giờ dám chiều theo khuynh hướng xấu hay làm một điều gì tai ác. Cũng vì kính trọng văn hóa và sự khôn ngoan của Hoàng hậu, nhà vua còn để toàn quyền cho Hoàng hậu trong việc hoạch định chương trình giáo huấn dân chúng Scốtlen theo tinh thần Phúc âm. Hoàng hậu Magarita vì vậy đã nỗ lực gây tinh thần đạo đức cho thần dân. Nhờ ngài, số giáo dân rước lễ mùa Phục sinh đã tăng lên gấp bội, và nhiều gia đình rối được điều chỉnh lại cho hợp thức. Thánh nữ còn tập cho dân giữ mùa chay ngay từ ngày lễ tro, đúng như thói quen của Giáo hội. Sau cùng, được sự thoả thuận của nhà vua, Hoàng hậu đã cho xây cất một thánh đường trang hoàng rất lộng lẫy dâng kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng trong hoàng cung thánh nữ đảm đương hết mọi việc. Chính tay ngài đan hoặc may cắt quần áo cho vua. Hiểu tính vua, ngài sắm sửa các đồ trang hoàng trong nhà khá lộng lẫy. Điểm chú ý là ở các cửa ra vào trong hoàng cung, ngài đều treo ảnh Thánh Giá bằng vàng hay bằng ngọc. Gắn liền ở dưới những lời than thở rất vắn tắt trích trong Thánh vịnh hay Thánh thư. Phụng dưỡng chồng và chăm sóc giáo dục các con, đó là hai việc thánh nữ lo hoàn tất và thánh hóa hơn cả. Ngài thường nói: "Chắc Chúa sẽ không bằng lòng khi thấy tôi làm những việc khác, đang khi sao nhãng bổn phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình". Ngài sinh hạ được sáu hoàng tử và ba công chúa. Tất cả đều theo gương mẹ sống đời đạo đức tốt lành. Hoàng tử thứ sáu tên là Đavít, sau được dân tôn kính như một vị thánh. Riêng công chúa Edith, lớn lên đẹp duyên với Hoàng đế nước Anh và về sau được phong thánh mang danh hiệu thánh nữ Mathilđa.
Thực ra, để thu lượm những kết quả trên, Hoàng hậu Magarita phải có một đời sống nội tâm phong phú và bác ái dồi dào. Viết về đời sống của ngài, một vị quan trong triều đã ghi như sau: "Mỗi buổi sáng, sau khi đã rửa chân cho sáu người nghèo, dọn bữa cho chín trẻ mồ côi, ngài cùng với mấy nữ tỳ đi thăm viếng, an ủi và ban đồ ăn hay quần áo cho các bệnh nhân và người nghèo. Chính những người nghèo khó bệnh tật cần được nghe lời nói an ủi, họ được nhìn thấy thái độ và nét mặt thông cảm của ngài cũng đủ để tâm hồn hoan lạc. Suốt ngày làm những công việc bác ái như thế, đêm đến ngài lại thức cầu nguyện. Đêm đêm, sau mấy giờ nghỉ ngơi, thánh nữ chỗi dậy đọc các kinh ban mai về lễ Chúa Ba Ngôi, lễ kính Thánh giá, lễ kính Đức Mẹ và kinh cầu cho các linh hồn luyện ngục. Trong mùa vọng và mùa chay, thánh nữ dự mỗi ngày hai ba lễ và rước lễ hằng ngày. Đời sống bác ái và đạo đức ấy đã đáng Chúa thưởng ban cho Hoàng hậu nhiều ơn cao quý đặc biệt như: biết trước việc sắp xảy đến. Ngài báo cho dân chúng biết ngày đau thương xảy đến cho tổ quốc: Quân vương Malcolm III sẽ bị tử trận cùng với Hoàng tử Eđua trong một cuộc viễn chinh.
Chính ngài cũng biết trước ngày qua đời của mình, vì thế, thánh nữ lo dọn mình cách rất sốt sắng, chuẩn bị bước vào cửa trời.
Trong những ngày nằm trên giường bệnh, thánh Magarita chỉ nhận Mình Thánh Chúa làm của ăn và thuốc uống duy nhất.
Ngài luôn tay giữ cây Thánh giá, hôn kính rất âu yếm và thành tín. Khi được tin nhà vua và con trai đầu lòng tử trận, thánh nữ cũng không tỏ vẻ buồn phiền, chỉ coi đó là ý Chúa Quan phòng muốn cho gia đình ngài mau được đoàn tụ trên trời. Với vẻ mặt vui mừng, ngài gượng dậy cùng với gia nhân cất kinh cảm tạ Thiên Chúa. Nhưng vừa đọc hết câu "Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, xin giải thoát con", ngài êm ái lịm đi trong tình yêu vĩnh cửu! Hôm ấy là ngày 16 tháng 11 năm 1093. Nét mặt ngài vẫn tự nhiên xinh đẹp như khi còn sinh thời. Xác thánh nữ được mai táng tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi thuộc tỉnh Dunfermline, bên cạnh mồ vua Malcolm III. Nối liền với hai phần mộ, người ta đặt một tấm bia bằng đá quí có khắc dòng chữ vắn tắt như sau: "Thánh Malcolm Vua và thánh Magarita Hoàng hậu, là cha mẹ dân Scốtlen, là con cái hiếu thảo của Giáo hội Chúa Kitô, và là tấm gương muôn đời cho những kẻ ở bậc đôi bạn".
Lòng tôn kính vua Malcolm III và cách riêng thánh nữ Magarita bắt đầu từ đó. Thánh Magarita được tuyên phong hiển thánh ngày 21.9 năm 1250. Sau nhiều lần thay đổi dưới các triều Giáo Hoàng, lễ kính ngài được Đức Giáo Hoàng Innôcentê XII, năm 1693 định vào ngày 10.6 hằng năm. Đến năm 1673, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đặt thánh nữ làm quan thầy xứ Scốtlen theo như đơn xin của hội đồng Giám mục bản xứ.
Vinh dự thay và cũng nặng nề thay chức phận làm mẹ và làm vợ trong gia đình của người phụ nữ. Chớ gì các bà mẹ, các người làm vợ hãy biết noi gương thánh Magarita để chu toàn và thánh hóa bổn phận cao quí của mình đối với chồng con trong gia đình. Đó chính là sứ mệnh của người phụ nữ, là con đường Chúa muốn các bà bước theo để nên thánh vậy.

* THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH"
Cũng như thánh nữ Magarita Maria, thánh nữ Gertruđê là chiến sĩ rao giảng lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh nữ là người thứ nhất được Chúa tỏ Trái Tim cho vì cũng là người thứ nhất cổ động phong trào đền tạ Thánh Tâm Chúa.
Thánh nữ Gertruđê sinh vào một đêm sáng năm 1264, làng Hêlêben thuộc xứ Saxa. Trong miền quê nhỏ bé này, nào có ai biết sẽ có sự gì mới lạ, nhưng mấy chục năm sau khi thánh nữ qua đời, người ta mới nhận ra rằng, đêm hôm ấy là một đêm lịch sử khởi đầu cho một kỷ nguyên truyền bá lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh nữ như đã được Chúa kén chọn để thi hành sứ mệnh đó ngay từ lúc còn thơ bé. Lúc mới lên năm tuổi, Gertruđê đã được cha mẹ gửi vào học tại dòng chị em thánh Biển Đức. Nơi đây, Gertruđê đã làm cho các chị nữ tu phải bỡ ngỡ về trí thông minh và đời sống đạo đức của mình. Gertruđê đã tuân giữ luật dòng một cách hết sức anh hùng, nhất là đức vâng phục. Người ta còn kể lại, một buổi tối kia, trời trở bão, nhà cửa bị gió thổi trốc hết nóc, cột kèo ngả nghiêng như muốn đổ. Để thử đức vâng lời, mẹ bề trên bảo Gertruđê ra ôm một cây cột để giữ cho nhà khỏi đổ. Mặc dầu biết sức mạnh không có ăn nhằm gì với sức gió, nhưng vì vâng lời, Gertruđê cũng ra ôm chặt cây cột. Mãi gần sáng Mẹ bề trên mới sực nhớ rằng mình đã sai Gertruđê đi giữ cột, cho người ra kêu thì thấy Gertruđê rét run cầm cập, hai tay vẫn ôm cây cột.
Sẵn có trí thông minh và nhân đức, bề trên cho phép Gertruđê được học tiếng La tinh và khoa học phần đời. Nhưng vì quá ham mê học hành, nên Gertruđê sút kém đường nhân đức, không còn năng tưởng nhớ tới Chúa như trước nữa.
Trước tình trạng đó, mẹ bề trên cũng không hay biết tâm hồn Gertruđê có gì thay đổi. Vì muốn chọn Gertruđê làm chiến sĩ tiền phong của tình yêu Thánh Tâm, nên Chúa Giêsu đã đích thân hiện đến cảnh cáo thánh nữ. Được Chúa quở trách, thánh nữ buồn phiền đau đớn vô cùng. Ngài xin Mẹ bề trên cho phép nghỉ các môn học khác, để chỉ chú tâm vào khoa học yêu mến Chúa mà thôi. Từ đây Gertruđê ngày đêm nghiền gẫm Kinh Thánh, học thần học và tìm hiểu đường lối tu đức.
Giai đoạn luyện lọc và tẩy rửa đã tạm xong. Khi Gertruđê 20 tuổi, Chúa Giêsu muốn dạy cho thánh nữ những bài học sống động mà không một cuốn sách nào ở trần gian có thể dạy được. Đó là bài học bao la của Trái Tim Chúa đối với loài người, mà loài người lại coi thường lòng thương yêu đó. Có lần thánh nữ đã chết ngất đi hồi lâu vì thấy Chúa cao cả quá, còn mình thì hèn hạ như phân bớn. Từ đấy thánh nữ luôn luôn sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa Giêsu. Từ việc ăn uống, ngủ nghỉ, đến những việc đạo đức hằng ngày, việc gì ngài cũng nhờ Chúa Giêsu đến cộng tác, y như thể Chúa Giêsu cùng ăn uống ngủ nghỉ với ngài vậy. Lúc ấy trong dòng có một nữ tu hết sức đạo đức tên là Mêtinđê đã được chứng kiến những cuộc xuất thần của thánh nữ Gertruđê. Một hôm khi Mêtinđê đang đọc kinh trong nhà thờ thì thấy Chúa Giêsu hiện ra sáng láng uy nghi, Gertruđê quỳ bên cạnh, đôi mắt dính lệ vào ánh hào quang, không động đậy, mắt cũng trở nên sáng láng. Rồi Gertruđê trở nên nhẹ nhàng cất mình lên khỏi mặt đất một lúc lâu. Trong khi đó, Mêtinđê nghe thấy Chúa Giêsu đàm thoại thân mật với Gertruđê: "Đó là cách yêu mến cha tốt nhất, dù ăn uống ngủ nghỉ, hay làm bất cứ một công việc gì, con cũng cứ nhớ đến Cha luôn, làm theo ý Cha và như thế, Cha sẽ làm thay cho con nhiều". Từ đấy, càng ngày, Gertruđê càng coi sự sống của mình thuộc hẳn về Chúa Giêsu, và việc nào làm mà không dâng cho Chúa thì ngài lấy làm đau khổ vô cùng, coi mình như kẻ phản nghịch, như kẻ trộm cướp của Chúa vậy.
Thánh nữ có lòng tôn sùng phép Thánh Thể một cách hết sức nồng nàn. Một nửa ngày ngài làm việc để dọn mình chịu lễ, và một nửa ngày để cám ơn. Người ta còn viết lại rằng: Một hôm, khi sắp lên rước lễ, ngài thấy lòng mình lạnh lẽo khô khan, chưa biết dọn lòng làm sao cho xứng đáng thì ngài buồn rầu phàn nàn quá sức. Nhưng thánh nữ đã khiêm nhường trông cậy vào Chúa và lên chịu lễ như thường. Bỗng nhiên thánh nữ ngất trí và say sưa nhìn Chúa Giêsu đang cho xem những vẻ đẹp đẽ lộng lẫy của một linh hồn chịu lễ sốt sắng. Thánh nữ đã có lần thốt lên: "Ai lên bàn thánh rước Mình Thánh Chúa, mà lại hay nói hành bỏ vạ, không có lòng thống hối, thì cũng chẳng khác chi người tiếp đón một thượng khách mà lại giơ chân đấm đá người khách đó trước khi họ bước chân vào nhà". Vì thế thánh nữ đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và giúp ngài chịu lễ cách sốt sắng thật.
Thuở ấy, Chúa Giêsu chưa có ý định bày tỏ Thánh Tâm Ngài cho nhân loại, nhưng nhiều lần Ngài đã nhắn nhủ Gertruđê hãy năng chạy đến ẩn mình trong Trái Tim Ngài; nhất là khi phải đau phiền. Một hôm bị ma quỷ cám dỗ, thánh nữ đọc kinh chia trí nhiều quá, ngài buồn rầu thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, con làm việc như vậy nào được ích gì? Xin Chúa nâng đỡ con". Bỗng nhiên Chúa Giêsu tỏ Thánh Tâm cho thánh nữ và nhắn nhủ: "Đây là Thánh Tâm Cha, các việc con làm, con hãy làm vì Thánh Tâm Cha, như thế, những việc lành thánh sẽ được Máu Cực Thánh Trái Tim Cha rửa cho sạch". Thế là Gertruđê đã trở nên một chiến sĩ nhiệt thành cổ động cho lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu mà mãi bốn thế kỷ sau thánh nữ Magarita Maria mới truyền bá cho cả loài người. Sách chép hạnh thánh nữ kể lại rằng: Có lần Chúa Giêsu đã đổi Thánh Tâm Ngài cho thánh nữ và nhận lấy trái tim của thánh nữ để ngài được yêu mến và nhận biết lòng Chúa hơn. Lần khác, Chúa lại hiện ra và nói với thánh nữ Mêtinđê: "Không có nơi nào Cha thích ngự xuống bằng lòng thánh nữ Gertruđê". Được nhìn thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu, thánh Gertruđê thường run sợ vì loài người yêu Chúa quá ít. Vì thế, một hôm ngài nức nở than khóc: "Lạy Chúa, con biết làm gì để đáp lại lòng Chúa yêu con? Con bội bạc cùng Chúa quá nhiều, xin Chúa dạy con". Lập tức thánh nữ được Chúa dạy bảo: "Hãy bỏ ý riêng mình và theo ý bề trên, đó là yên ủi Cha, Đấng đã bị quân dữ bắt sỉ nhục, hãy cáo tội lỗi mình với những người đại diện Cha, như thế con sẽ xoa dịu được những vết thương Cha đã chịu. Hãy thống hối, ăn năn cầu nguyện cho kẻ có tội và yêu mến Thánh Tâm Cha nhiều hơn, như thế con sẽ làm nhẹ bớt được phần nào gian khổ Cha đã chịu trong giờ hấp hối". Những lời căn dặn ấy, Chúa đã truyền cho thánh nữ ghi chép lại để răn dạy cho loài người.
Người chiến sĩ của Thánh Tâm Chúa Giêsu đã đền đáp được phần nào tình thương hải hà của Chúa đối với nhân loại bằng cách yêu, yêu thật nhiều và làm cho nhiều người yêu mến phạt tạ Thánh Tâm. Ngày 15 tháng 11 năm 1307, thánh nữ đã vĩnh biệt cõi trần, về ẩn mình trong Thánh Tâm Chúa Giêsu muôn đời…

 

Posted By Đỗ Lộc Sơn15:18

Bài giảng CN 33A TN-.Các Thánh Tử Đạo VN

Filled under:

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 vị tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. 
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã
bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử. 
- Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình:
Bị xiềng xích, lao tù,
bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp,
bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông,
bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc.
Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…
Nhưng với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Quả thật trên đây là những tấm gương anh hùng của các thánh tử đạo Việt Nam.
Tuy nhiên chúng ta luôn phải nhớ rằng tử đạo là một ơn đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho một ai.
Đã là Kitô hữu, chúng ta phải có bổn phận làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình.
Làm chứng một cách âm thầm nhưng không kém phần anh hùng như trường hợp của một giáo lý viên sau đây:
Vào năm 1934, cha Alexis đến truyền giáo tại vùng Đông Bắc Lybia. Nơi đây, cha được một sự cộng tác rất nhiệt thành của một giáo lý viên tên là Joan Cardina.
Cardina được gởi tới một làng ngoại giáo.
Ban đầu anh bị dân làng chống đối, nhất là các thầy phù thủy hầu như lúc nào cũng như muốn tìm cách giết anh cho bằng được.
Cuối cùng anh bị dân làng trục xuất, thế là anh phải cất một cái chòi ở ven làng.
Những người có thiện cảm nhất với anh cũng không ai dám ghé thăm.
Thế nhưng anh vẫn can đảm tự mình làm lụng vất vả, kiên trì cầu nguyện, đồng thời sẵn sàng chia sẻ phần thu họach ít ỏi với những người nghèo đói, cứu giúp họ thóat khỏi những cơn bệnh nguy tử bằng một vài lọai cây thuốc trong rừng.
Có lần, một ông già làng đến gặp anh và nói:” Tại ao anh không chịu đi nơi khác, anh coi đấy, chẳng ai ưa anh, cũng chẳng ai muốn nghe cái thứ tôn giáo của anh”.
Cardina ôn tồn trả lời:”Thiên Chúa đã sai tôi đến đây, Ngài đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc mọi người chúng ta. Vì thế tôi cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để các ông nhận biết Ngài. Tôi sẽ không rời bỏ nơi này bao lâu chưa có ai trở thành người Kitô hữu”
Thế rồi dân làng đành cho anh ở lì.
Mấy năm sau, Cardina bị bệnh sốt ác tính và anh đã qua đời tại đây.
Sau khi anh qua đời, dân làng cảm phục trước sự kiên trì của anh, đã tự ý đi tìm chỗ học đạo. Thế là một số giáo lý viên được gởi đến và chỉ sau một thời gian ngắn cả làng đều theo đạo.
Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa.
Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả nhưng khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị thánh Tử Đạo Việt Nam,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta. Amen

                                Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy



Posted By Đỗ Lộc Sơn04:23