Hiển thị các bài đăng có nhãn BÀI GIẢNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÀI GIẢNG. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Bài giảng CN 33A TN-.Các Thánh Tử Đạo VN

Filled under:

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 vị tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. 
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã
bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử. 
- Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình:
Bị xiềng xích, lao tù,
bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp,
bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông,
bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc.
Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…
Nhưng với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Quả thật trên đây là những tấm gương anh hùng của các thánh tử đạo Việt Nam.
Tuy nhiên chúng ta luôn phải nhớ rằng tử đạo là một ơn đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho một ai.
Đã là Kitô hữu, chúng ta phải có bổn phận làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình.
Làm chứng một cách âm thầm nhưng không kém phần anh hùng như trường hợp của một giáo lý viên sau đây:
Vào năm 1934, cha Alexis đến truyền giáo tại vùng Đông Bắc Lybia. Nơi đây, cha được một sự cộng tác rất nhiệt thành của một giáo lý viên tên là Joan Cardina.
Cardina được gởi tới một làng ngoại giáo.
Ban đầu anh bị dân làng chống đối, nhất là các thầy phù thủy hầu như lúc nào cũng như muốn tìm cách giết anh cho bằng được.
Cuối cùng anh bị dân làng trục xuất, thế là anh phải cất một cái chòi ở ven làng.
Những người có thiện cảm nhất với anh cũng không ai dám ghé thăm.
Thế nhưng anh vẫn can đảm tự mình làm lụng vất vả, kiên trì cầu nguyện, đồng thời sẵn sàng chia sẻ phần thu họach ít ỏi với những người nghèo đói, cứu giúp họ thóat khỏi những cơn bệnh nguy tử bằng một vài lọai cây thuốc trong rừng.
Có lần, một ông già làng đến gặp anh và nói:” Tại ao anh không chịu đi nơi khác, anh coi đấy, chẳng ai ưa anh, cũng chẳng ai muốn nghe cái thứ tôn giáo của anh”.
Cardina ôn tồn trả lời:”Thiên Chúa đã sai tôi đến đây, Ngài đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc mọi người chúng ta. Vì thế tôi cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để các ông nhận biết Ngài. Tôi sẽ không rời bỏ nơi này bao lâu chưa có ai trở thành người Kitô hữu”
Thế rồi dân làng đành cho anh ở lì.
Mấy năm sau, Cardina bị bệnh sốt ác tính và anh đã qua đời tại đây.
Sau khi anh qua đời, dân làng cảm phục trước sự kiên trì của anh, đã tự ý đi tìm chỗ học đạo. Thế là một số giáo lý viên được gởi đến và chỉ sau một thời gian ngắn cả làng đều theo đạo.
Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa.
Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả nhưng khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị thánh Tử Đạo Việt Nam,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta. Amen

                                Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy



Posted By Đỗ Lộc Sơn04:23

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Giảng lễ Thiếu nhi: Lễ các thánh Tử đạo Việt Nam

Filled under:

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Chủ đề : “Ai mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ tìm lại được sự sống mình”  
I. NHẬP : Cùng với Giáo Hội hoàn cầu, hôm nay chúng ta long trọng mừng kính các vị thánh anh hùng tử đạo Việt Nam. Máu của các Ngài đã đổ xuống trên quê hương này để làm chứng cho Đức Kitô. Là con cháu, chúng ta được mời gọi để noi gương các Ngài, viết tiếp những trang sử hào hùng bất khuất qua việc sống cho đạo và chết vì đạo.
II. GIẢNG :
Kể chuyện về thánh Tôma Trần Văn Thiện. Trước lời dụ dỗ ngon ngọt của vị quan xử án : Con hãy bước qua thập giá, ta sẽ gả con gái của ta cho con, Tôma Trần văn Thiện đã khẳng khái trả lời : Tôi không mong chức quyền dưới đất mà chỉ mong chức trọng trên trời.
Hình 1 : Hình cánh đồng lúa vàng trên đất nước Việt Nam.
* Hạt giống đức tin Kitô giáo đã được gieo vào mảnh đất Việt Nam từ năm nào ?
T. Từ năm 1533, cách đây 481 năm.
* Trong 481 năm đó, đã có bao nhiêu năm bị bách hại ?
T. Hơn 300 năm, qua thời các Chúa Trịnh Sâm, Trịnh Doanh, và các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Hình 2 : Ngày lễ phong các thánh tử đạo Việt Nam tại Rôma.
* Giáo Hội Việt Nam đã có bao nhiêu người con hy sinh tử đạo?
T. Có 130.000 người. Trong số đó có 117 vị được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 phong hiển thánh vào ngày 19.6.1988; một vị được phong chân phước năm 2.000 (Thầy Anrê Phú Yên)
* Các Ngài thuộc thành phần nào ?
T. Thuộc đủ mọi thành phần gồm : 8 Giám Mục; 50 linh mục; 1 chủng sinh; 15 thầy giảng; 44 giáo dân.
Hình 3 : Các thánh tử đạo với ngành lá chiến thắng trên tay.
* Các thánh tử đạo là người thế nào?
T. Cũng là những người như chúng ta, cũng ham sống và sợ chết.
* Vì sao các Ngài có thể can đảm hy sinh đến hơi thở và giọt máu cuối cùng?
T.  – Nhờ vào sứ mạnh ơn thánh Chúa.
– Nhờ vào lòng mến Chúa sắt son.
III. ÁP DỤNG :
Hình 4 :  Em bé quì cầu nguyện trước tượng chịu nạn.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam :
1. Sống cho đạo :
– Hết lòng thờ phượng kính mến Chúa.
– Chuyên chăm học hỏi giáo lý.
2. Chết cho đạo :
– Không dối trá với cha mẹ bề trên.
– Không nói và làm những điều tục tĩu bậy bạ.
Châm ngôn sống : “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh mầm các tín hữu” .
IV. BÀI CA Ý LỰC SỐNG : Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Các thánh tử đạo Việt Nam năm xưa. Một lòng mến Chúa chấp nhận hiến thân. Đòn roi lao tù thịt da nát tan. Hân hoan tiến bước về trời vinh quang.
Cờ bay phất phới trên nơi thiên cung, tử đạo anh dũng nêu gương kiên trung, dòng máu anh hùng rạng danh núi sông.
Ngại chi gian khó noi gương cha ông, một lòng theo Chúa băng qua gai chông, yêu Chúa không sờn, sắt son đến cùng.
Lm Giuse Vũ Đức Hiệp

Posted By Đỗ Lộc Sơn14:12

Video Giảng lễ Các Thánh Tử Đạo VN

Filled under:


Posted By Đỗ Lộc Sơn12:56

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2014

Giảng lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa và Đức Mẹ Sầu Bi

Filled under:


Posted By Đỗ Lộc Sơn18:59

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Ơn gọi nên thánh của chúng ta

Filled under:

Kinh Truyền TinQuảng trường Thánh Phêrô
Thứ Ba, Lễ các Thánh nam nữ, 1/11/2011
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ trọng kính các Thánh nam nữ là một dịp thuận tiện để đưa mắt ra khỏi những thực tại trần thế, được đánh dấu bằng thời gian, để hướng về chiều kích của Thiên Chúa, chiều kích của vĩnh cửu và thánh thiện. Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta  sự thánh thiện là ơn gọi đầu tiên của mỗi người đã chịu phép rửa tội (x. Lumen gentium, s. 40). Quả thật, Đức Kitô, Đấng, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, là Đấng Thánh duy nhất (x. Kh 15,4), đã yêu mến Giáo Hội như hiền thê của mình và đã hiến mình cho Giáo Hội, để thánh hoá Giáo Hội (x. Ep 5,25-26). Chính vì lý do này mà mọi thành viên của Dân Chúa đều được mời gọi trở nên thánh, thể theo lời khẳng định của Tông đồ Phaolô: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1Th 4,3). Do đó, chúng ta được mời gọi nhìn Giáo Hội không chỉ trong khía cạnh thời gian và con người của Giáo Hội, được đánh dấu bằng tính mỏng giòn, mà còn nhìn Giáo Hội theo như ý muốn của Đức Kitô, nghĩa là trong “sự hiệp thông của các thánh” (Giáo lý của Giáo hội Công giáo, s. 946). Trong kinh Credo [Tin kính], chúng ta tuyên xưng Giáo Hội  “thánh thiện”, thánh thiện với tư cách là Thân mình của Đức Kitô, một công cụ để tham dự vào những Mầu nhiệm thánh - trước tiên là Thánh Thể - và với tư cách là gia đình của các Thánh, mà trong ngày rửa tội, cộng đoàn dâng chúng ta cho gia đình này bảo vệ. Ngày hôm nay, chúng ta tôn kính cộng đoàn đông đảo các Thánh, là những người, qua những con đường sống khác nhau của mình, đã chỉ cho chúng ta những con đường nên thánh khác nhau, được liên kết trong cùng một mẫu số chung, đó là đi theo Đức Kitô và khuôn đúc cuộc đời chúng ta theo Người, là mục đích tối hậu của những biến cố trong đời chúng ta. Quả thật, mọi giai đoạn sống có thể trở nên những con đường nên thánh, nhờ tác động của ân sủng, nhờ sự dấn thân kiên trì của mỗi người.
Ngày mai, 2-11, được dành riêng để tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời, sẽ giúp chúng nhớ đến những người thân yêu đã từ giã chúng ta và tất cả những ai trong cuộc hành trình hướng về đời sống viên mãn, những người của Giáo Hội trên Thiên quốc, mà ngày lễ trọng hôm nay hướng tâm hồn chúng ta về đó. Ngay từ những thời gian đầu của đức tin Kitô giáo, Giáo Hội trần thế nhận ra sự hiệp thông trong nhiệm thể Đức Giêsu Kitô, nên với lòng tôn trọng sâu xa, đã sốt sắng tưởng nhớ những tín hữu qua đời và dâng lễ cầu nguyện cho họ. Do đó, lời cầu nguyện của chúng ta dành cho tín hữu đã qua đời không những có ích mà còn cần thiết nữa, bởi vì không những lời cầu nguyện của chúng ta có thể giúp đỡ họ, nhưng đồng thời cũng làm cho lời họ bầu cử  cho chúng ta được trở nên hữu hiệu (x. Giáo lý của Giáo hội Công giáos. 958). Việc đi viếng nghĩa trang, ngoài việc duy trì những mối dây yêu thương đối với những ai đã yêu mến chúng ta trong cuộc đời này, cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng tất cả chúng ta đang hướng về một cuộc sống khác bên kia cái chết. Ước gì những giọt lệ khóc thương người thân đã qua đời sẽ không được làm giảm đi niềm tin vào sự sống lại, giảm đi niềm hy vọng đạt được hạnh phúc vĩnh cửu, “giây phút được hoàn toàn thoả mãn, khi mà cái toàn thể ôm lấy chúng ta và khi chúng ta ôm lấy cái toàn thể” (Spe salvi - Được cứu rỗi trong niềm hy vọng -, s. 12). Đối tượng hy vọng của chúng ta là vui mừng có Chúa hiện diện mãi mãi. Đức Giêsu đã hứa như thế cho các môn đệ của mình khi Người phán: “Thầy sẽ lại gặp các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và sự vui mừng của các con sẽ không ai cướp đi được” (Ga 16,22).
Hãy phó dâng cuộc lữ hành hướng về quê trời cho Đức Trinh Nữ Maria, là Nữ Vương các Thánh, khi chúng ta cầu xin Ngài lấy tình Mẹ hiền mà cầu thay nguyện giúp cho những anh chị em chúng ta đã qua đời.

Posted By Đỗ Lộc Sơn16:11

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2014

Bài giảng CN 30A TN : Giới răn trọng nhất

Filled under:


 Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César,
nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác :
Họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi Chúa Giêsu:
”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất,
đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài,  
vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng,
điều luật kia không trọng thì chắc chắn Chúa sẽ bị một trong hai phe chống đối.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng:
”Ngươi hãy yêu mến  Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất.           
Còn giới răn  thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. 
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18).
Chỉ có một điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau.
Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất.
Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”,
có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh,
do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn,  
nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất.
Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu»,
đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác nhau:
tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt.
Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai mặt của một tờ giấy:
tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói:
«Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21)(JKN).
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “mến Chúa yêu người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rắng:
Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường.
Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe.
Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe.
Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
"Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?".
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: "Em xin lỗi! Nhưng em ... em ... không biết làm cách nào khác.
Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...
Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng".
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má.
Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
"Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo.
Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá". Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ:
"Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không?
Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào.
Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì  xúc động.
Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà.
Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình.
Sự giận dữ trong anh biến mất.
Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe.
Anh muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay,
về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé.
Anh đã tiếc thời gian
và đi quá nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá vào xe mới làm anh dừng lại.Amen

                                  Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy


Posted By Đỗ Lộc Sơn17:10

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

Bài Giảng CN 29A TN. KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Filled under:


Đức Giáo Hoàng Phanxicô
đã nói trong Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014 như sau:
Ngày nay vẫn còn rất nhiều người chưa nhận biết Đức Giêsu Kitô.
Thế nên, sứ mạng “đến với muôn dân” (ad gentes) vẫn còn hết sức cấp bách.
Mọi phần tử của Hội Thánh được kêu gọi tham gia sứ mạng này,
vì Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra để “đi ra”.
Ngày Thế giới Truyền giáo là cơ hội đặc biệt để các tín hữu trên khắp các châu lục
cùng nhau cầu nguyện
và có những hành động liên đới cụ thể để nâng đỡ các Giáo Hội trẻ tại các xứ truyền giáo. Đây là một cuộc biểu dương ân sủng và niềm vui.
Một cuộc biểu dương ân sủng,
bởi vì Chúa Thánh Thần được Chúa Cha sai đến ban phát sự khôn ngoan
và sức mạnh cho những ai vâng theo tác động của Người.
Một cuộc biểu dương niềm vui,
vì Chúa Giêsu Kitô, Người Con được Chúa Cha sai đến Phúc Âm Hoá thế gian,
đang nâng đỡ và đồng hành với chúng ta trong các nỗ lực truyền giáo.
Đây chính là lý do để tôi đề nghị một biểu tượng Kinh Thánh mà chúng ta gặp thấy trong Tin Mừng Thánh Luca 10,21-23
Thánh Luca
kể lại cho chúng ta rằng
Chúa sai 72 môn đệ từng hai người một đi vào các thành thị và làng mạc
loan báo Nước Thiên Chúa, và chuẩn bị cho dân chúng gặp gỡ Đức Giêsu.
Sau khi chu toàn sứ mạng rao giảng, các môn đệ trở về lòng tràn ngập niềm vui:
Các môn đệ tràn ngập niềm vui, phấn khích vì họ có quyền năng giải thoát người ta khỏi ma quỷ.
Đức Giêsu cảnh báo họ đừng quá vui mừng vì quyền năng họ đã nhận được,
nhưng vui mừng vì tình thương họ nhận được,
“vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Chúa cho các môn đệ trải nghiệm tình thương của Thiên Chúa, nhưng cũng cho họ khả năng chia sẻ tình thương ấy.
Và trải nghiệm này là một lý do để Đức Giêsu biểu lộ tâm tình tạ ơn và niềm vui.
Thánh Luca diễn tả niềm hoan lạc này trong ý nghĩa của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi:
“Được Thánh Thần tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng”,
Ngài nhìn lên Chúa Cha và chúc tụng Người.
Giờ phút vui mừng sâu xa này
phát sinh từ mối tình con thảo của Đức Giêsu đối với Chúa Cha là Chúa Tể trời đất,
Đấng che giấu những điều này đối với những người tài trí khôn ngoan,
nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn (x. Lc 10,21).
( trích “Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”)

Trong sứ điệp năm nay, Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến niềm vui Chúa cho các môn đệ cảm nghiệm được tình thương của Chúa và cũng cho họ khả năng để chia sẻ tình thương đó.
Đây chính là cốt lõi của việc truyền giáo,
vì chính trong tình thương này Thiên Chúa đã hiện diện trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
Thiên Chúa đã chi phối cuộc sống của chúng ta ra rao?
Chúng ta phải cảm nghiệm ra rằng: rời xa tình thương của Chúa là chúng ta không thể tồn tại, hay nếu có tồn tại thì chúng ta cũng chỉ sống như một thây ma, một cái xác không hồn.
Phải có cảm nghiệm như thế thì chúng ta mới có thể đáp ứng lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:

Truyền giáo chính là một cuộc biểu dương ân sủng và niềm vui.
Làm sao có thể biểu dương niềm vui được khi chúng ta không có niềm vui đó trong tâm hồn.
Để có thể biểu dương niềm vui, tất nhiên chúng ta phải có niềm vui đã rồi mới biểu dương ra bên ngoài.
Nghĩa là chúng ta phải có Tin Mừng đã rồi mới biểu dương, loan báo Tin Mừng đó.
Và nếu đã là Tin Mừng, Tin Vui thì chúng ta không thể giữ kín mà tất nhiên chúng ta sẽ chia sẻ Tin Mừng Tin Vui  ấy cho những người chung quanh chúng ta.
Cảm nhận được tình thương của Chúa, chính là Tin Vui, Tin Mừng đích thực của chúng ta.
Cảm nhận được tình thương Chúa, đó cũng chính là nền tảng để ra đi truyền giáo.
Sau đây là cảm nghiệm của một người tân tòng đã cảm nhận được Tin Vui đích thực và ông đã chia sẻ như sau:
Người Công Giáo là kẻ có cảm thức được Thiên Chúa yêu thương,
được yêu thương một cách sâu thẳm và được mời gọi đáp trả lại tình yêu thương đó.
Có cái gì như một kẻ si tình.
Si tình ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ Giá (la folie de la croix);
và như chữ Thương Khó, Khổ Nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion).
Sự so sánh giữa các thánh của Kitô Giáo với các thiền sư, các đạo gia,
thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse)”.
Và người tân tòng chia sẻ tiếp:
“Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau đó là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị.
Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền.
Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài
có cái gì tương tự như sự an ủi của người mẹ hiền, người bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn – nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết”.
Ông cho rằng
“sự hấp dẫn của Chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài
từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó,
trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy.
Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời,
nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống”của Ngài (sa “personne” et sa “vie”).
Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài.
Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không thể quên được.
Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!…
Thông minh, tài trí, dũng cảm…có lẽ nhiều người hơn Đức Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì chỉ duy nhất có một mình Ngài mà thôi!” (Vũ Văn An, Nguyễn Khắc Dương: Một người trí thức Việt Nam nhập đạo nói về cảm nghiệm “Đi tìm Giáo Hội”).
Lạy Chúa xin ban niềm vui đó cho chúng con để chúng con cùng với toàn thể Giáo Hội biểu dương niềm vui đó cho thế giới hôm nay.  Amen


                                                                 Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:20

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

BÀI GIẢNG CN 28A TN TIỆC CƯỚI

Filled under:


Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Chúa Giêsu thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách.
Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người :
"Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (Mt 21,23).
Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu họ còn lẩn tránh câu hỏi của Người hỏi: "Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (Mt 21,24).
Trong bối cảnh gay cấn như vậy, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để cảnh báo họ:
-  Dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho (Mt 21,28-32)
-  Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-43)
-  Dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14)
Trong dụ ngôn tiệc cưới hôm nay,
Thiên Chúa mời chúng ta đến dự tiệc vui với Ngài.
Thiên Chúa thích chia sẻ niềm vui và sự sống cho con người.
Ngài cần con người đáp lại lời mời đó, để sự hiệp thông giữa đôi bên được trọn vẹn.
Nhưng cũng như những khách được mời trong Tin Mừng hôm nay,
“Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”,
chúng ta cũng có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời:
Chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện gia đình, bè bạn, chuyện giải trí, chuyện lo cho sự nghiệp tương lai...
Chúng ta có nhiều thứ ưu tiên khác nên việc đến gặp gỡ Thiên Chúa bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Biết bao lần chúng ta lỡ hẹn với Ngài, từ chối niềm vui và sự sống đích thực để chạy theo những quyến rũ của trần gian,
nhưng Thiên Chúa vẫn cứ sai người đi mời. Bàn tiệc lúc nào cũng sẵn sàng.
Vấn đề là tôi có đến không, tôi có đặt Chúa lên trên những bận tâm về mình không?
Dân tộc Do Thái chính thức được mời dự tiệc.
Thiên Chúa đã sai đến với dân Ngài yêu mến những ngôn sứ và những nhà rao giảng Tin Mừng,
nhưng họ đã khước từ và một số bị giết đi.
Bữa tiệc linh đình vốn dành cho khách quý nay trở thành bữa tiệc cho mọi người mà các đầy tớ tình cờ gặp ngoài đường phố.
 "Từ phương đông, phương tây, nhiều người sẽ dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp..."
Chúng ta là dân ngoại, được mời vào phòng tiệc, được gia nhập Hội Thánh qua phép Rửa.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới.
Chúng ta phải coi chừng kẻo lại rơi vào sự tự mãn như người Do Thái.
Được làm con cái Chúa, được sống trong Hội Thánh đó không phải chỉ là những ơn để nhận, mà còn là ơn để sống.
Mặc y phục lễ cưới là thực sự đổi đời, là cho thấy mình coi trọng bữa tiệc của Chúa. Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi mình có mặc y phục lễ cưới không?
Chiếc áo cưới ở đây tượng trưng cho cách sống của chúng ta.
Theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh Kinh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật như Chúa Giêsu đã kêu mời:
“Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”
 
Như vậy chiếc áo cưới ở đây không phải là chiếc áo cưới vật chất như trong đời thường,
hay một chiếc áo cưới đắt giá như bộ áo cưới của một người Nhật được đăng trên báo Công Giáo và Dân Tộc  ngày 27/05/1984 :
“Một người thợ Nhật Bản tên là Jumikaisura đã may cho cô dâu một áo cưới
trên có đính 2.000 viên ngọc và 65 viên kim cương trị giá 1.280.000 USD !”
 
Ăn năn hoán cải, thực lòng sám hối trở về cùng Chúa,
đó chính là chiếc áo cưới Thiên Chúa đòi chúng ta
khi chúng ta bước vào tiệc cưới của Ngài.
Như vậy Chúa đòi nơi chúng ta tới dự tiệc phải có lòng sám hối.
Đây chính là chiếc áo cưới Chúa đòi nơi chúng ta.
Áo cưới này không cần phải có tiền mới mua sắm được,
nhưng chỉ cần một tấm lòng với tất cả thành tâm thiện chí
là chúng ta có ngay một chiếc áo cưới mà Chúa mong muốn nơi chúng ta. Amen
 
                                     Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Posted By Đỗ Lộc Sơn00:34

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

BÀI GIẢNG CN 28A TN TIỆC CƯỚI

Filled under:



Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Chúa Giêsu thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách.
Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người :
"Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (Mt 21,23).
Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu họ còn lẩn tránh câu hỏi của Người hỏi: "Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (Mt 21,24).
Trong bối cảnh gay cấn như vậy, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để cảnh báo họ:
-  Dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho (Mt 21,28-32)
-  Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-43)
-  Dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14)
Trong dụ ngôn tiệc cưới hôm nay,
Thiên Chúa mời chúng ta đến dự tiệc vui với Ngài.
Thiên Chúa thích chia sẻ niềm vui và sự sống cho con người.
Ngài cần con người đáp lại lời mời đó, để sự hiệp thông giữa đôi bên được trọn vẹn.
Nhưng cũng như những khách được mời trong Tin Mừng hôm nay,
“Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”,
chúng ta cũng có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời:
Chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện gia đình, bè bạn, chuyện giải trí, chuyện lo cho sự nghiệp tương lai...
Chúng ta có nhiều thứ ưu tiên khác nên việc đến gặp gỡ Thiên Chúa bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Biết bao lần chúng ta lỡ hẹn với Ngài, từ chối niềm vui và sự sống đích thực để chạy theo những quyến rũ của trần gian,
nhưng Thiên Chúa vẫn cứ sai người đi mời. Bàn tiệc lúc nào cũng sẵn sàng.
Vấn đề là tôi có đến không, tôi có đặt Chúa lên trên những bận tâm về mình không?
Dân tộc Do Thái chính thức được mời dự tiệc.
Thiên Chúa đã sai đến với dân Ngài yêu mến những ngôn sứ và những nhà rao giảng Tin Mừng,
nhưng họ đã khước từ và một số bị giết đi.
Bữa tiệc linh đình vốn dành cho khách quý nay trở thành bữa tiệc cho mọi người mà các đầy tớ tình cờ gặp ngoài đường phố.
 "Từ phương đông, phương tây, nhiều người sẽ dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp..."
Chúng ta là dân ngoại, được mời vào phòng tiệc, được gia nhập Hội Thánh qua phép Rửa.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới.
Chúng ta phải coi chừng kẻo lại rơi vào sự tự mãn như người Do Thái.
Được làm con cái Chúa, được sống trong Hội Thánh đó không phải chỉ là những ơn để nhận, mà còn là ơn để sống.
Mặc y phục lễ cưới là thực sự đổi đời, là cho thấy mình coi trọng bữa tiệc của Chúa. Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi mình có mặc y phục lễ cưới không?
Chiếc áo cưới ở đây tượng trưng cho cách sống của chúng ta.
Theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh Kinh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật như Chúa Giêsu đã kêu mời:
“Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”

Như vậy chiếc áo cưới ở đây không phải là chiếc áo cưới vật chất như trong đời thường,
hay một chiếc áo cưới đắt giá như bộ áo cưới của một người Nhật được đăng trên báo Công Giáo và Dân Tộc  ngày 27/05/1984 :
“Một người thợ Nhật Bản tên là Jumikaisura đã may cho cô dâu một áo cưới
trên có đính 2.000 viên ngọc và 65 viên kim cương trị giá 1.280.000 USD !”

Ăn năn hoán cải, thực lòng sám hối trở về cùng Chúa,
đó chính là chiếc áo cưới Thiên Chúa đòi chúng ta
khi chúng ta bước vào tiệc cưới của Ngài.
Như vậy Chúa đòi nơi chúng ta tới dự tiệc phải có lòng sám hối.
Đây chính là chiếc áo cưới Chúa đòi nơi chúng ta.
Áo cưới này không cần phải có tiền mới mua sắm được,
nhưng chỉ cần một tấm lòng với tất cả thành tâm thiện chí
là chúng ta có ngay một chiếc áo cưới mà Chúa mong muốn nơi chúng ta. Amen

                                     Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Posted By Đỗ Lộc Sơn00:35