Hiển thị các bài đăng có nhãn GIÁO HUẤN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn GIÁO HUẤN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

ĐTC Phanxicô - Giáo Lý Giáo Hội Cộng Đồng - Bài 13 - Thứ Tư 12/11/2014

Filled under:

Anh Chị Em thân mến,

Trong bài giáo lý trước chúng ta đã thấy được cách thức để Chúa có thể tiếp tục chăn nuôi đàn chiên của Người qua thừa tác vụ của các Giám Mục, linh mục và phó tế. Chính nơi các vị mà Chúa Giêsu đích thân hiện diện, bằng quyền năng Thần Linh của Người, và tiếp tục phục vụ Giáo Hội, nuôi dưỡng đức tin, đức cậy và chứng từ đức mến của Giáo Hội. Bởi thế, những thừa tác vụ này là một đại tặng ân của Chúa ban cho hết mọi cộng đồng Kitô hữu cũng như cho toàn thể Giáo Hội, vì chúng là dấu hiệu hiện diện sống động của Người và tình yêu thương của Người.

Hôm nay, chúng ta cần phải tự hỏi các vị thừa tác viên của Giáo Hội cần những gì để các vị có thể sống việc phục vụ của mình một cách chân thực và trung thành?

Trong "Các Bức Thư Mục Vụ" của mình gửi cho các người môn đệ Timothêu và Titô, Tông Đồ Phaolô đã cẩn thận chia sẻ về hình ảnh của các Giám Mục, linh mục và phó tế. Có cả hình ảnh về tín hữu, về giới già, về giới trẻ. Ngài lưu ý tới việc diễn tả về hết mọi Kitô hữu trong Giáo Hộị Đối với các Giám Mục, linh mục và phó tế ngài nhấn mạnh đến những gì các vị được kêu gọi cùng với những đặc quyền đặc nhiệm ở nơi các vị, thành phần được chọn cho những thừa tác vụ ấỵ Vậy, tiêu biểu được nêu lên, cùng với các tặng ân vốn có nơi đức tin cũng như nơi chính đời sống thiêng liêng, đó là một số phẩm tính nhân bản tốt đẹp không thể coi thường đã được liệt kê đó là hiếu khách, nhã nhặn, nhẫn nại, hiền lành, khả tín và tốt bụng. Tôi xin lập lại nhé: hiếu khách, nhã nhặn, nhẫn nại, hiền lành, khả tín và tốt bụng. Đó là bản mẫu tự, là văn phạm căn bản của hết mọi thừa tác vụ! Nó cần phải là thứ văn phạm căn bản của hết mọi Giám Mục, hết mọi linh mục và hết mọi phó tế! Đúng thế, vì nếu thiếu mất điều kiện tiên quyết tốt lành và chân thực này để gặp gỡ, nhận biết, đối thoại, cảm nhận và liên hệ với những người anh em một cách trân trọng và chân thành thì không thể nào có được một thứ phục vụ và chứng từ thật sự hân hoan và khả tín.

Bởi thế, có một thái độ được Thánh Phaolô khuyên dụ các môn đệ của mình, theo đó cũng cho tất cả những ai dấn thân cho thừa tác mục vụ như Giám Mục, linh mục hay phó tế. Vị Tông Đồ này huấn dụ rằng hãy liên tục làm tái sinh động tặng ân đã nhận lãnh (cf. 1 Timothy 4:14; 2 Timothy 1:6). Điều này có nghĩa là việc nhận thức ấy cần phải luôn tồn tại ở chỗ mình không phải là Giám Mục, linh mục hay phó tế vì mình thông minh hơn, tốt lành hơn hay khá hơn người khác mà chỉ vì đó là một tặng ân của tình yêu thương, một tặng ân được Thiên Chúa ban cho nhưng không bằng quyền năng của Thần Linh Ngài cho thiện ích của dân Ngài. Nhận thức này thật là quan trọng và là một ân huệ cần cầu xin hằng ngày! Thật thế, vị Mục Tử nào nhận thức thừa tác vụ của mình chỉ xuất phát từ tình thương và cõi lòng của Thiên Chúa sẽ không bao giờ tỏ thái độ uy quyền, như thể hết mọi người đều ở dưới chân mình và cộng đồng là tài sản của mình, là vương quốc tư riêng của mình

Ý thức mọi sự đều là hồng ân, mọi sự đều là ân sủng, cũng giúp cho vị Mục Tử không chiều theo khuynh hướng quan trọng hóa bản thân mình và chỉ tin tưởng vào mình mà thôi. Chúng là các khuynh hướng hoang tưởng, kiêu kỳ, tự mãn, ngạo mạn. Khốn cho vị Giám Mục nào, linh mục nào hay phó tế nào nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, mình bao giờ cũng giải quyết được mọi sự và chẳng cần đến ai. Ngược lại, ý thức rằng mình là đối tượng đầu tiên nơi tình thương và lòng cảm thương của Thiên Chúa phải là những gì giúp cho vị thừa tác viên của Giáo Hội luôn khiêm tốn và cảm thông khi đối xử với người khác. Cũng thế, bằng việc ý thức mình được kêu gọi để can đảm bảo vệ kho tàng đức tin (xem 1Timothêu 6:20), vị thừa tác viên biết lắng nghe dân chúng. Thật vậy, vị thừa tác viên nhận thức rằng mình luôn có một cái gì đó để học hỏi, cũng như nhận thức về những ai có thể vẫn còn xa đức tin và xa Giáo Hội. Với những người anh em Giám Mục của mình, với các linh mục và phó tế, tất cả đều phải dẫn ngài đến chỗ có được một thái độ mới được thể hiện bằng việc chia sẻ, đồng nhiệm và hiệp thông. 

Các bạn thân mến, chúng ta luôn phải nhớ ơn Chúa, vì nơi bản thân và thừa tác vụ của các vị Giám Mục, linh mục và phó tế, Ngài tiếp tục hướng dẫn và hình thành Giáo Hội của Người, làm cho Giáo Hội tăng trưởng trên con đường nên thánh. Chúng ta đồng thời cũng cần phải tiếp tục cầu nguyện để các vị Mục Tử của những cộng đồng chúng ta có thể trở thành hình ảnh sống động của mối hiệp thông và tình yêu Thiên Chúa

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chi tiết in nghiêng mầu tự ý) từ

Posted By Đỗ Lộc Sơn12:41

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

Đức Thánh Cha Phanxicô Và Sức Mạnh Của Một Vòng Tay Ôm

Filled under:

Phỏng vấn Linh Mục Antonio Spadaro, giám đốc nguyệt san ”Văn minh công giáo”
Ngày mùng 5-11-2014 các nhà sách tại Italia đã bầy bán cuốn sách tựa đề ”Bên kia bức tường. Đối thoại giữa một người hồi giáo, một rabbi do thái và một kitô hữu”. Cuốn sách tập trung trên các buổi nói chuyện của cha Antonio Spadaro, tiến sĩ Omar Abboud và Rabbi Abraham Skorka, là hai nhân vật đã ôm hôn Đức Thánh Cha Phanxicô trước bức tường khóc tại Giêrusalem, khi Đức Thánh Cha đến cầu nguyện tại đây trong chuyến viếng thăm Thánh Địa các ngày từ 24 đến 26 tháng 5 năm nay 2014. Hình ảnh đó đã trở thành hình ảnh biểu tượng triều đại của Đức Phanxicô.
Nó lại càng là một biểu tượng mạnh mẽ hơn nữa trong bối cảnh chính trị xã hội và tôn giáo căng thẳng tại Giêrusalem trong các ngày qua. Lý do là vì các tranh chấp giữa người Israel và người Palestine liên quan tới sân Đền Thờ Giêrusalem, nơi có đền thờ hồi giáo thuộc quyền kiểm soát của người Palestine xây trên nền Đền Thờ do thái xưa kia, nhưng giờ đây nhiều người Do thái muốn tái chiếm để tái thiết Đền Thánh của họ.
Hai nhóm Hamas và Jihad Islamica đã kêu gọi người Palestin ồ ạt xuống đường biểu tình tại Gaza, Giêrusalem và vùng Cisgiordania, để bầy tỏ liên đới với đền thờ El Aqsa, chống lại chủ trương do thái hóa thành Giêrusalem. Ngoài ra còn có sự kiện chính quyền Israel liên tục đưa ra các quyết định hạn chế số tín hữu hồi lên cầu nguyện trên đền thờ El Aqsa. Sheikh Azzam Al-Khatib, quản đốc đền thờ El Aqsa, cho biết cảnh sát Do thái đã cấm các công dân Palesstin dưới 35 tuổi đến cầu nguyện tại đây. Đền thờ hồi giáo El Aqsa thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Giordania, và ngày mùng 6-11-2014 nhà nước Amman đã triệu hồi đại sử của mình để phản đối các đường lối chính trị của chính quyền Israel. Trong các tuần qua cảnh sát đã hộ tống nhiều nhóm tín hữu do thái qúa khích vào cầu nguyện trong khu vực sân đền thờ. Và đã xảy ra các vụ đụng độ với các người Palestin biểu tình và các vụ tấn công chính đền thờ El Aqsa. Trong cuộc điện đàm với vua Abdallah của Giordania thủ tướng Netanyahu kể rằng đã có 150 tín hữu do thái cực đoan tụ tập nhau trong thành cổ Giêrusalem để tiến lên khu vực sân đền thờ.
Chính trong bối cảnh căng thẳng này, sự xuất hiện của cuốn sách ”Bên kia bức tường. Đối thoại giữa một người hồi giáo, một rabbi do thái và một kitô hữu” rất có ý nghĩa. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Cha Antonio Spadaro, giám đốc nguyệt san ”Văn minh công giáo” về cuốn sách này.
Ông Omar Abboud là người có thân phụ gốc Libăng, thân mẫu gốc Siria. Ông bà nội của ông đã di cư sang Argentina hồi thập niên 1930 để tìm các điều kiện sống tốt đẹp hơn. Ông nội ông đã thành lập nhà in El Nilo và đã xuất bản bản dịch Kinh Coran đầu tiên ra tiếng Tây Ban Nha, được dịch trực tiếp từ tiếng A Rập. Ông dậy tiếng Pháp, nhưng cũng rành tiếng Anh, tiếng Ý và biết một chút tiếng Đức và tiếng Nga. Ngày nay Argentina có khoảng 500 ngàn người hồi, nhưng có hơn 1 triệu người Argentina gốc vùng Trung Đông. Tại Flores và Buenos Aires các tín hữu Melkít, Hồi giáo, Do thái và Công giáo quen sống hòa bình với nhau và tôn trọng nhau. Ông Omar Abboud đã sống kinh nghiệm này cùng với Đức Bergoglio từ mười năm nay và vẫn tiếp tục đồng hành với người bạn đã trở thành Giáo Hoàng.
Rabbi Abraham Skorka năm nay 64 tuổi là chuyên viên sinh vật lý học. ông là rabbi của cộng đoàn do thái Buenos Aires, giám đốc Trường rabbi Mỹ châu Latinh, kiêm giáo sư Thánh Kinh và nền Văn chương rabbi của trường, và là giáo sư danh dự về Luật do thái tại đại học el Salvador, Buenos Aires. Rabbi cũng là tác giả nhiều sách và đã cùng Đức Bergoglio đối thoại về nhiều đề tài như: Thiên Chúa, khuynh hướng hồi giáo qúa khích, người vô thần, cái chết, cuộc diệt chủng Do thái, đồng tính luyến ái, chế độ tư bản. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng và năm 2010 đã được đại học công giáo Buenos Aires trao tặng văn bằng tiến sĩ danh dự.
Hỏi: Thưa cha Spadaro, cuốn sách này nảy sinh từ đâu?
Đáp: Nó nảy sinh từ sự thu hút của một vòng tay ôm hôn, vòng tay ôm hôn được trao cho nhau trước Bức Tường Khóc giữa Đức Thánh Cha Phanxicô, một tín hữu do thái là Rabbi Abraham Skorka và một thủ ]ãnh Hồi giáo là ông Omar Abboud. Vòng tay ôm hôn đó, sức mạnh của nó đã thành công trong việc chọc thủng bức tường, một bức tường mà chúng ta có thể nói là chia rẽ. Khi chúng ta nhận thức được sức manh của tình bạn, chúng ta cảm nhận được rằng tất cả các vũ khí chính đáng của ngoại giao và của các trung gian luôn có bên trong chúng một hình thức giả hình. Trái lại, tình bạn thì không: tình bạn đơn sơ và thẳng thắn. Vì thế tôi cho rằng vòng tay ôm hôn đó chỉ cho chúng ta một con đường, một con đường rất rõ ràng của một lộ trình dài, mà chúng ta không thể đi một mình.
Hỏi: Có thể nói rằng Đức Thánh Cha Phanxicô là một vị Giáo Hoàng luôn luôn đồng hành, nghĩa là luôn luôn bước đi cùng người khác, với những ai ngài gặp gỡ, chính ngài tiến lại gần người khác, có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Đối với Đức Thánh Cha Thượng Hội Đồng Giám Mục là một lộ trình, một năng động, trước khi là một biến cố. Vì thế tôi nghĩ rằng chúng ta đang ở trong lộ trình đồng hành và việc cùng nhau bước đi đối với Đức Thánh Cha Phanxicô không chỉ là một chiến thuật hoán cải, nhưng là một cách thức sống cuộc sống của chúng ta trên trái đất này và để làm chứng cho Tin Mừng.
Hỏi: Có cái gì đã đánh động cha trong các buổi nói chuyện với ông Omar Abboud và rabbi Abraham Skorka, là hai người bạn lâu năm của Đức thánh Cha Phanxicô?
Đáp: Đó là sự thân thiết và sức mạnh tình bạn mà Đức Thánh Cha Phanxicô có đối với hai người. Sách cũng kể lại các chi tiết rất sâu xa, sống động của tình bạn ấy. Khi nói chuyện với hai người tại Roma cũng như tại Buenos Aires, hai lần với cả hai vị tôi đã có thể tận mắt trông thấy các nơi trong đó họ sống. Chẳng hạn như thư viện của ông Omar Abboud, là người hồi giáo, lại có nhiều sách thần học kitô do chính Đức Thánh Cha tặng cho ông. Tôi ngạc nhiên khi trông thấy các sách đó trong thư viện của ông, và tôi đã hỏi ông tại sao và nhận ra rằng Đức Thánh Cha có mối dây bằng hữu rất mạnh mẽ với ông, và nó cũng đã trở thành sự thông truyền kinh nghiệm của sự khôn ngoan tôn giáo sâu xa và của niềm tin. Trong tương quan này có thể tiếp nhận sự khôn ngoan của người khác, khi nhìn vào ý nghĩa sâu xa, nghĩa là vượt qúa các hàng rào và các ngăn cách. Đây là một chứng tá sống động giúp chúng ta hiểu Đức Thánh Cha hơn, nhìn từ một viễn tượng do thái và từ một viễn tượng hồi giáo.
Hỏi: Thưa cha, ở ngoài bìa cuốn sách có viết một câu đã có trong lịch sử của thánh Phanxicô: ”Xây dựng hòa bình khó, nhưng sống mà không có hòa bình là một khổ đau bứt rứt”. Nói cho cùng, Đức Thánh Cha chỉ cho thấy con đường đơn sơ nhất, nhưng có lẽ là con đường thực sự là giải pháp cho hòa bình, nghĩa là con đường của sự đối thoaị và tình bạn, có phải thế không?
Đáp: Hòa bình rất khó mà đạt được, tuy nhiên đối với Đức Thánh Cha không thể đạt được bằng cách ngồi vào một bàn và thảo luận các ý tưởng trừu tượng. Quan niệm của ngài về đối thoại là một quan niệm rất cụ thể. Để đối thoại cần phải cùng nhau làm một cái gì đó. Cần phải cùng nhau xây dựng một cái gì đó. Đây là một chút bài học đến với chúng ta từ kinh nghiệm của ngài bên Argentina, nói cho cùng là một quốc gia đã được xây dựng trên sự di cư, và vì thế trên sự hợp lưu của các truyền thống tôn giáo rất khác nhau. Kinh nghiệm của các người này đó là họ không đi diễn thuyết, hay có các cuộc đối thoại trừu tượng, các cuộc hội luận bàn tròn, nhưng là đã cùng nhau xây dựng một cái gì đó, một mảnh xã hội, và đã cùng nhau suy tư về cái cùng nhau làm việc đó, rồi họ đã thành công đề nghị với chúng ta một mô thức đối thoại và một con đường cho hòa bình.
(RG 5-11-2014)
Linh Tiến Khải

Posted By Đỗ Lộc Sơn11:46

Chủ Chăn Không Được Độc Đoán Nhưng Phải Khiêm Tốn Và Biết Lắng Nghe

Filled under:

Ý thức chức thừa tác là một ơn Chúa ban chứ không phải vì mình thông minh, tài giỏi, tốt lành hơn người khác, giúp các Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế biết sống khiêm tốn, cảm thông, thương xót, biết lắng nghe và học hỏi từ người khác, chứ không độc đoán, làm như thể cộng đoàn là của riêng mình và mọi người phải quỳ phục dưới chân mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với háng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi găp gỡ chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 12-11-2014.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý các đức tính mà các vị thừa tác của Giáo Hội phải có để sống việc phục Giáo Hội một cách đích thực và phong phú.
Mở đầu bài huấn Đức Thánh Cha nói: Trong bài giáo lý trước chúng ta đã minh nhiên sự kiện Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên Ngài qua chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế.  Chính nơi các vị Chúa Giêsu hiện diện, trong quyền lực của Thần Khí Ngài, và tiếp tục phục vụ Giáo Hội bằng cách dưỡng nuôi đức tin, đức cậy, đức mến trong Giáo Hội. Như thế, các chức thừa tàc này là một ơn lớn lao Chúa ban cho mỗi cộng đoàn kitô và cho toàn thể Giáo Hội, trong nghĩa nó là một dấu chỉ sống động sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Vậy chúng ta có thể tự hỏi đâu là điều được đỏi hỏi nơi các vị thừa tác này của Giáo Hội, để họ có thể sống việc phục vụ của mình một cách đích thật và phong phú?
Trong các ”Thư mục vụ” gửi các môn đệ của mình là Timoteo và Tito, tông đồ Phaolô cẩn thận đừng lại trên gương mặt của các giám mục, linh mục và phó tế, bằng cách phác họa ra ơn gọi của các vị và các đức tính cần được nhận ra nơi những người được chọn và trao phó cho các chức thừa tác này.
Thật là biểu hiệu, cùng với các ơn gắn liền với đức tin và cuộc sống tinh thần, có vài đức tính rất nhân bản được liệt kê ra: sự tiếp đón, thanh đạm, kiên nhẫn, hiền dịu, có thể tin cậy, có con tim tốt.  Đó là mẫu tự, đó là văn phạm nền tảng của mỗi chức thừa tác. Nó phải là văn phạm nền tảng của mỗi giám mục, mỗi linh mục, mỗi phó tế. Phải, vì nếu không có bẩm chất xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, trân qúy và liên lạc với các anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì không thể cống hiến một phục vụ và một chứng tá thực sự tươi vui và đáng tin cậy.
Thế rồi còn có một cung cách nền tảng mà thánh Phaolô khuyên nhủ các môn đệ của người và tất cả những ai được thụ phong chức thừa tác mục tử. Thánh tông đồ khích lệ họ liên tục làm sống lại ơn đã nhận lãnh (X. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Điều này có nghĩa là họ phải luôn luôn sống trong ý thức rằng mình không phải giám mục, linh muc hay phó tế bởi vì mình thông minh hơn, tài giỏi hay tốt hơn các người khác, nhưng chỉ vì đó là một ơn, một ơn của tình yêu Thiên Chúa đã rộng ban, trong quyền năng Thần Khí của Người, cho thiện ích của dân Người. Ý thức này thật là quan trọng, và nó là một ơn cần phải xin mỗi ngày.
Thật thế, một Mục tử ý thức được rằng chức thừa tác của mình chỉ nảy sinh duy nhất từ lòng thương xót và từ con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ quyền uy, làm như thể là tất cả mọi người phải qùy dười chân mình và cộng đoàn là của riêng mình, là vương quốc của mình.
Ý thức rằng tất cả là quà tặng, tất cả là ơn thánh, cũng giúp một Mục tử không rơi vào chước cám dỗ đặt mình làm trung tâm sự chú ý và chỉ tin tưởng nơi chính mình. Thật khốn cho một giám mục, một linh mục, hay một phó tế nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, luôn luôn có câu trả lời đúng cho mọi chuyện, và không cần tới ai hết! Trái lại, ý thức mình là người đầu tiên là đối tượng lòng thương xót và cảm thương của Thiên Chúa phải dẫn đưa một vị thừa tác tới chỗ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông đối với người khác. Tuy ý thức là mình được mời gọi can đảm giữ gìn kho tàng đức tin (x. 1 Tm 6,20) người ấy sẽ lắng nghe dân chúng. Thật vậy, họ ý thức được rằng mình luôn luôn học hỏi được điều gì đó, cả từ những người còn xa đức tin và xa Giáo Hội. Rồi với các anh em mình tất cả phải đưa tới chỗ có một cung cách hành xử mới, mang dấu vết của sự chia sẻ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự hiệp thông.
Các bạn thân mến, chúng ta phải luôn luôn nhớ ơn Chúa, bởi vì nơi con người và trong chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế, Người tiếp tục hướng dẫn và đào tạo Giáo Hội Người, khiến cho nó lớn lên dọc dài con đường nên thánh. Đồng thới chúng ta cũng phải tiếp tục cầu nguyện, để cho các Mục Tử của các cộng đoàn chúng ta là hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu thương của Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ các nườc Âu châu và Bắc Mỹ cũng như tín hữu đến từ Nam Phi, Indonesia, Nhật Bản, Argentina, Mehicô và Brasil.
Chào các tín hữu nói tiếng Arập, đặc biệt đoàn hành hương đến từ Giordania, Đức Thánh Cha khẳng định rằng lời mời gọi của Thiên Chúa luôn luôn là hoa trái lòng quảng đại, cảm thông và thương xót của Người. Ngài xin họ cầu nguyện cho các chủ chăn, để các vị thi hành chức thừa tác với lòng khiêm nhường, tinh thần phục vụ và biết lắng nghe, và trở thành hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu của Chúa. Đức Thánh Cha xin Chúa chúc lành cho họ và che chở họ khỏi kẻ dữ.
Chào các đoàn hành hương Ba Lan ngài nhắc tới kỷ niệm 25 năm lễ phong chân phước cho tu huynh Alberto Adam Chmielowski. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi người là ”Bổn mạng của sự thay đổi khó khăn của đất nước chúng ta và Âu châu”. Chúng ta hãy học hỏi nơi thánh nhân việc thực thi tình yêu thương xót đối với những người cần được trợ giúp là hình ảnh sống động của Chúa Kitô.
Với các tín hữu Mehicô Đức Thánh Cha chia buồn về vụ các sinh viên học sinh mất tích, nhưng thật ra là bị ám sát. Thực tại thê thảm này của nạn tội nằm phạm đàng sau việc buôn bán ma túy. Nó liên quan tới anh chị em và gia đình anh chị em.
Trông thấy một nhóm quân nhân Chile Đức Thánh Cha nói trong những ngày này chúng ta đang kỷ niệm 30 năm ký kết hiệp định hòa bình giữa Argentina và Chile, liên quan tới việc tranh chấp biên giới giữa hai bên. Hiệp định đã có thể ra đời nhờ ý chí đối thoại và sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II và Đức Hồng Y Samore. Đức Thánh Cha cầu mong tất cả các dân tộc đang xung khắc và tranh chấp nhau liên quan tới biên giới, văn hóa và mọi lý do khác tìm giải quyết chúng qua việc đối thoại, chứ không qua sự tàn ác của chiến tranh.
Với các đoàn hành hương nói tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các Nữ tu Scalabrini, các Nữ tu Cát minh thừa sai của Chúa Giêsu Hài đồng đang họp tổng tu nghị, các sinh viên và giáo sư Phân khoa Khoa học xã hội của Đại học giáo hoàng Salesien nhân kỷ niệm 25 năm thành lập; các gia đình có con cái là nạn nhân giao thông và những người bị mất tích. Ngài cầu nguyện cho những người đã thiệt mạng vì các tai nạn lưu thông cũng như cho những người đã không bao giờ trở về với tình yêu thương gia đình.
Sau khi xướng tên của nhiều nhóm khác Đức Thánh Cha cầu chúc chuyến hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ củng cố nơi họ ý thức thuộc gia đình Giáo Hội.
Chào các bạn trẻ, các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ngài nhắc cho mọi người biết hôm thứ ba vừa qua Giáo Hội mới mừng lễ thánh Martino thành Tours. Ngài xin cho gương bác ái lớn lao của thánh nhân nêu gương sống hiến thân cho các bạn trẻ; lòng tín thác của người nơi Chúa Kitô Cứu Thế nâng đỡ các người đau yếu trong những lúc khổ đau; và sức mạnh tinh thần của thánh nhân nhắc nhớ cho các cặp vợ chồng mới cưới lấy đức tin làm trung tâm điểm cuộc sống hôn nhân.
Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho tất cả mọi người.
Linh Tiến Khải

Posted By Đỗ Lộc Sơn11:42

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

THƯ MỤC TỬ MÙA VỌNG VÀ MÙA GIÁNG SINH 2014

Filled under:




Saigon, ngày 10 tháng 11 năm 2014
Kính gửi : Quý Cha, Quý Bề Trên,
Quý Tu sĩ Nam Nữ, Chủng sinh
và Anh Chị Em giáo dân trong Gia Đình Giáo Phận

1. Kính chào tất cả quý cha, quý bề trên, quý nam nữ tu sĩ, chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân. Tôi đã được mời tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế giới Khóa Ngoại thường về “Mục vụ Gia đình”, với tư cách là Chủ Tịch HĐGMVN. Mục đích Đức Thánh Cha Phanxicô khi triệu tập THĐGMTG lần này là để lắng nghe các nghị phụ, đặc biệt là các chủ tịch HĐGM các quốc gia, để biết tình trạng đời sống các gia đình Công giáo trên thế giới. Tất cả bắt nguồn từ tình thương và ước muốn phục vụ con người, giống như Chúa Giêsu khi nhìn thấy đám đông thì chạnh lòng thương. Sau hai tuần làm việc ráo riết : lắng nghe, trao đổi, tham luận, góp ý, suy niệm …, Thượng Hội Đồng đã bế mạc ngày 19 tháng 10 vào ngày lễ phong “chân phước” cho Đức Thánh Cha Phaolô VI.
2. Tôi ra về, lòng hân hoan vui sướng vì đã được cộng tác với Đức Thánh Cha và hàng Giám mục thế giới trong tình huynh đệ. Tâm hồn mục tử được nâng cao và lòng đầy hy vọng cho tương lai của Giáo hội Chúa Kitô trong thời đại đầy những biến chuyển và thử thách này.  “Ở đâu tội lỗi càng nhiều, thì ở đó càng dồi dào ân sủng”(Rm 5, 20). Đó là điều thánh Phaolô đã từng rao giảng, làm nổi bật Tình yêu vô vị lợi của Thiên Chúa : Tình yêu không đặt điều kiện, không mặc cả, cho đi mà không tính toán, Tình yêu tự hiến trọn vẹn nơi cái chết hy sinh của Chúa Giêsu trên Thập giá ! Lòng tôi đầy hy vọng vì hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có “niềm hy vọng lớn lao” : được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần yêu thương trọn vẹn, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, Tình Yêu ấy vẫn chờ đợi chúng ta (x. Spe Salvi, số 3).
3. Mùa Vọng là “Mùa Chờ đợi”:  Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta. Trong Thư II, thánh Phêrô nói với chúng ta : “Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.” (2 Pr 3,9b). Thiên Chúa chờ đợi, vì muốn gặp gỡ chúng ta. Chúa Giêsu Kitô muốn gặp gỡ chúng ta, nên Người sẽ trở lại trong vinh quang. Nhưng nếu trong cuộc đời lữ thứ này, chúng ta gặp gỡ được Chúa trong đức tin, nhờ lắng nghe Lời Chúa và cử hành phụng vụ bí tích, thì chúng ta đã là “phúc nhân” rồi ! Tuy ở trong thế gian, chúng ta vẫn không thuộc về thế gian, đúng như lòng Chúa Giêsu mong ước, được biểu lộ trong Lời cầu nguyện với Chúa Cha trước khi ra đi về cùng Chúa Cha (x. Ga 17,14-16).
4. Thiên Chúa chờ đợi ! Chúng ta chờ đợi ! Trong thâm sâu, lòng con người lúc nào cũng ước ao những điều cao thượng, âm thầm hướng về Thiên Chúa là Cội Nguồn, là Quê Hương đích thực. Sự hoài hương thuộc về bản chất của con người. Mùa vọng là mùa Giáo hội khơi dậy lòng yêu mến Quê Hương đích thực của người kitô hữu. Hướng về Quê Trời, yêu mến “Quê Hương Ba Ngôi”, không phải là lãng quên các giá trị trần thế. Trái lại, nghĩa vụ của mọi người kitô hữu là biến đổi thế giới, thay đổi trần gian này, chuẩn bị cho “Trời mới Đất mới” (2 Pr 3,13) nơi Thiên Chúa ngự trị : “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Chính Thiên Chúa đổi mới tất cả, Thần Khí Tác Tạo của Chúa canh tân bộ mặt trái đất ! Hãy cộng tác với Thần Khí, đổi mới mọi sự, dọn đường cho Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể làm người và ở giữa chúng ta.
5. Hãy noi gương Gioan Tiền Hô, dọn đường cho Chúa. Hãy trở thành tiếng của “Người Hô trong sa mạc” ! Người Hô ấy chính là Đức Chúa! Cuộc đời chúng ta trở thành “tiếng nói” của Đức Chúa. Chúng ta là “sứ giả” của Người ; để bớt phần bất xứng, trước hết phải canh tân chính mình ! Hãy đổi mới bản thân! Hãy lấp cho đầy những hố sâu, để khỏi có ai rơi vào ! San bằng những lồi lõm trên đường ta đi, để người khác có thể đồng hành ! Hãy tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế, Đấng sẽ đến làm phép rửa bằng Thánh Thần. Hãy quan tâm đổi mới cuộc sống gia đình, dù có rất nhiều khó khăn và thách đố ! Chuẩn bị cho gia đình đón Chúa, lắng nghe Tin mừng của Chúa !
6. Đặc biệt năm nay, hãy nỗ lực đưa Niềm vui của Tin mừng vào giáo xứ, đến với mọi thành phần trong giáo xứ, vào các cơ chế và tổ chức của giáo xứ. Làm thế nào để Giáo xứ mỗi ngày thêm giống Cộng Đoàn Kitô hữu đầu tiên (x. thư MV của HĐGMVN, số 1). Trong giáo xứ, giống như trong gia đình, mỗi người tự canh tân mình trước khi đòi hỏi người khác phải thay đổi. Sám hối và tin vào Tin mừng, thì sẽ có Niềm vui của Tin mừng. Niềm vui này trước hết là niềm vui bước theo Chúa và trở nên người môn đệ chân chính của Chúa, lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Giáo xứ dần dần trở nên như gia đình của Thiên Chúa ở trần gian. Cha xứ, cha phó, làm gương sáng cho giáo dân trong nỗ lực vươn lên. Hội đồng giáo xứ và các đoàn thể cố gắng đổi mới cách sống, cách suy nghĩ.
7. Tôi đã chủ sự Thánh lễ tại nhiều nhà thờ các giáo xứ và cảm thấy rất hãnh diện về việc tham dự tích cực và sốt sắng của các thành phần Dân Chúa. Chỉ còn rất ít người đi trễ, có lẽ vì kẹt xe hay một lý do nào đó; nhưng nếu khắc phục được, thì thật là đáng khen. Chắc trong số những người tham dự Thánh lễ, có nhiều người thực sự muốn gặp gỡ và nhận được sự sống từ nơi Chúa. Tôi chưa có dịp nghe anh em linh mục giảng trong Thánh lễ, nhưng rất ước mong anh em lưu tâm chuẩn bị bài giảng vắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, có chất lượng nuôi dưỡng đời sống Dân Chúa. Trong việc dạy giáo lý, cần có sự cộng tác chặt chẽ giữa linh mục và giáo dân, nhưng linh mục vẫn là người chịu trách nhiệm chính. Làm thế nào để việc huấn giáo góp phần đưa Lời Chúa vào cuộc sống của các tín hữu.
8. Tôi ước mơ các giáo xứ trở thành những cộng đoàn hiệp thông, hiệp thông với Chúa, hiệp nhất với nhau. Mọi người đều có chỗ đứng trong lòng giáo xứ, nhất là những người nghèo, những người trẻ. Tôi ước mơ mọi kitô hữu trong giáo xứ đều trở nên những môn đệ tông đồ của Chúa Giêsu, dấn thân tích cực loan báo Tin mừng Chúa Giêsu, sẵn sàng đối thoại với mọi người, những người thuộc các tôn giáo khác, cả những người không theo một tín ngưỡng tôn giáo nào ; sẵn sàng trả lẽ về niềm hy vọng trong lòng, trong cuộc sống của anh em. Tôi ước mong tất chúng ta, những người kitô hữu, trở thành những “đấng an ủi”, “đấng bảo trợ”, giống như Chúa Thánh Thần, đối với những người gặp nhiều hoạn nạn khổ đau. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn, mở rộng tầm nhìn hướng về những phần đất xưa kia đã từng là cái nôi của  Kitô-giáo như Syrie, Irak…, dâng những hy sinh để cầu nguyện cho họ, cho những người phải bỏ lại mọi sự, xa rời quê nhà để làm chứng cho Chúa. Tại Việt Nam, lòng chúng ta hướng về anh chị em di dân bỏ các vùng quê lên thành phố tìm kế sinh nhai.
9. Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn năm 2015 là năm của “đời sống thánh hiến”. Đây là cơ hội thuận lợi để anh chị em sống đời thánh hiến đào sâu căn tính và đoàn sủng của mình, để “trải nghiệm không ngừng sự nếm cảm tình bạn và sứ điệp của Đức Kitô” (x. Niềm vui của Tin Mừng, số 264). Chính trải nghiệm này thúc giục anh chị em ngày càng yêu mến Đức Kitô nhiều hơn và chia sẻ tình yêu ấy cho người khác, dấn thân cho sứ vụ Phúc âm hóa cách mạnh mẽ hơn, trong sự hợp tác chặt chẽ với Giáo hội địa phương (x. Thư MV của HĐGMVN năm 2014).
10. Về phương diện mục vụ, từ Chúa Nhật I Mùa Vọng, Tổng giáo phận Saigon của chúng ta bắt đầu thực hiện chương trình đã được HĐGMVN đề nghị cho năm 2015 về việc tân phúc âm hóa đời sống các giáo xứ và các cộng đoàn sống đời thánh hiến. Sau Mùa Vọng, chúng ta sẽ hân hoan bước vào Lễ Giáng Sinh, một Đại Lễ không những cho Giáo hội Công giáo, mà  cho mọi kitô hữu trên thế giới. Chúng ta vui mừng vì Chúa đến với chúng ta, Chúa sinh ra làm người ở giữa nhân loại, và sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta sẽ tiếp nối “nền văn hóa gặp gỡ” mà Chúa đã mở ra cho chúng ta, hướng về ngày mọi người gặp gỡ nhau trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.
11. Chúng ta sẽ noi gương Chúa, đến với mọi người, đặc biệt là những người nghèo, đến ở giữa họ, ở cùng họ, chia vui sẻ buồn với họ. Đem ánh sáng Tình thương của Thiên Chúa đến cho mọi người, đem “tin yêu”, đem “niềm vui của Tin Mừng” đến cho mọi người. Chúa Giáng Sinh là nguồn vui của chúng ta. Những thứ vui chơi khác chỉ là phụ thuộc, không được che lấp Ánh Sáng linh thiêng của đêm Noel, niềm vui thiêng thánh mà Chúa mang tới. Xin anh chị em bớt tiêu xài vào những vui chơi theo kiểu trần gian trong đêm Noel, để tiền bạc và của cải vật chất chia sẻ cho người nghèo. Tôi nghe nói những anh chị em bị nhiễm HIV/AIDS ở “trọng điểm”, nơi mà trước đây có một sự hợp tác khá chặt chẽ giữa các dòng tu và phía chính quyền, cùng với xã hội dân sự, rất thiếu thốn, đặc biệt trong những dịp lễ lớn, như Noel, Tết Nguyên Đán.
12. Niềm vui Giáng Sinh của chúng ta sẽ kéo dài, nếu Đức Chúa Trời không ngừng sinh ra trong tâm hồn chúng ta. Mà đâu có Tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời, đâu có lòng từ bi là đó có ân sủng Người, đâu có lòng bác ái, thì Chúa chúc lành không ngơi, đâu ý hợp tâm đầu, ở đó chứa chan niềm vui !
Cầu chúc anh chị em một Mùa Vọng thật sốt sắng, một Lễ Noel thật ấm cúng, một Mùa Giáng Sinh tràn ngập niềm vui và ân sủng !
Thân ái kính chào anh chị em !
(đã ký và đóng dấu)
+ Phao lô BÙI VĂN ĐỌC

Tổng Giám Mục

Posted By Đỗ Lộc Sơn00:27

Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2014

Có nguy cơ về sự hiện diện của những Ki-tô hữu vô thần

Filled under:



Huấn từ ngày 7 tháng 11, 2014
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: Trong bài đọc 1 (Pl 3, 17-21; 4, 1), Thánh Phao-lô nói về “hai hạng người Ki-tô” ngày nay vẫn có. “Cả hai đều tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, ca tụng Thiên Chúa và được mệnh danh là Ki-tô hữu.”

Nhưng loại người thứ hai “cư xử như những kẻ thù của Thập Giá Chúa Ki-tô. Đây là những Ki-tô hữu trần tục, Ki-tô có danh hiệu, mang trên mình vài ba điều có dinh líu đến Ki-tô giáo, và chỉ có thế thôi”.

Những “Ki-tô hữu vô thần này “ là những “kẻ vô thần được đánh vài lớp vẹc-ni Ki-tô giáo để ra vẻ mình là người Ki-tô” nhưng lại không tuân theo “các đòi hỏi của đạo giáo”.

Đức Thánh Cha khẳng định: “Ngày hôm nay vẫn còn biết bao nhiêu người như thế.” Ngài khuyên mọi người “chú ý để không sa vào con đường của các Ki-tô hữu vô thần, những Ki-tô hữu bề ngoài”. Cũng cần chú ý đến chước cám dỗ là quá quen thuộc với sự tầm thường”, dẫn đưa tới “sự đổ nát” vì trái tìm trở nên nguội lạnh. Ngài lưu ý mọi người phải thức tỉnh khi nhắc “lời mạnh mẽ” của Thiên Chúa với những người hâm hấp: “Vì ngươi hâm hấp, Ta sẽ phải mửa người ra khỏi miệng Ta.”

“Người công dân của trần thế” có tên họ là “trần tục” và định mệnh cuối cùng của họ là “sự hư mất”: “Những Ki-tô hữu đánh vẹc-ni sẽ có hậu quả xấu … “Đức Thánh Cha đã trình bầy những dấu chỉ nội tâm cho biết khi người ta lao vào con dốc trơn tuột của sự trần tục: “quá mê say đồng tiền, danh dự và sự kiêu sa.”

Trái lại, những ai “tìm cách yêu mến Chúa và phục vụ người khác thì dịu dàng, hiền lành, và là người chỉ biết phục vụ, họ đang đi đúng đường. Thẻ tùy thân của họ tốt: vì xuất xứ từ trên Trời.” “Quyền công dân của các Ki-tô hữu” thực vậy là “từ trời cho” vì đưa họ đến gặp gỡ Đức Ki-tô.”

Đức Thánh Cha đã nhắc đến Phúc Âm ngày hôm nay, về người quản gia bất lương (Lc 16, 1-8) : ‘Làm sao tên quản gia đã có thể lừa đảo« ông chủ như vậy? Có phải là xẩy ra ngày một ngày hai không? Không phải vậy. Từ từ thôi. Một chút tiền cho bồi, một chai rượu rồi dần dần tới sự tham nhũng. Con đường trần tục của của những kẻ thù của Thấp Giá Thánh Ki-tô là như vậy, sẽ dẫn tới sự tham nhũng. Và họ kết cuộc như người quản gia, sẽ ăn cắp thẳng tay.”

Cũng như Thánh phao-lô, Đức Thánh Cha khuyến mọi người “hãy vững tâm trong Chúa Ki-tô” trong thài độ “của Thập Giá Chúa Ki-tô: khiêm nhường, nghèo nàn, hiền lành, và phục vụ kẻ khác, thờ phượng và cầu nguyện”, không để cho tâm hồn bị trơn trượt về “hư không, về sự tham nhũng.”

Ngài đã đặt vài câu hỏi để xét mình: “Tôi có cái gì trần tục bên trong con người tôi không? Có gì là vô thần không? Tôi có thích khoe khoang không? Tôi có yêu tiền bạc không? Tôi có thích kiêu ngạo không? Gốc rễ của tôi từ đâu? Tôi là công dân nước nào” Nước Trời hay trái đất? Tôi có tinh thần trần tục không?”
---------------------
HỒI GIÁO - DO THÁI GIÁO TRANH CHẤP QUYẾT LIỆT TẠI NÚI ĐỀN Ở GIÊRUSALEM.


Núi Đền (Temple Mount) trong khu Cổ Thành Jerusalem là nơi thánh đối với cả 3 tôn giáo độc thần: người Do thái coi đây là nơi Abraham sát tế con là Isaac và là địa điểm Đền thờ vua Salomon đã xây cất; người Hồi giáo coi đây là nơi thánh thứ 3 của đạo này, sau La Mecca và Medina bên Arập Sauđi, còn đối với các Kitô hữu, đây là nơi Chúa Giêsu đã tiên báo về sự phá hủy Đền thờ Jerusalem.

Trên núi Đền có một sân rộng hình thang dài gần 500 mét và rộng khoảng 300 mét, chiếm 1 phần 6 diện tích của Cổ Thành Jerusalem. Trên sân rộng này có 2 Đền Thờ lớn của Hồi giáo được kiến thiết: Thứ nhất là Đền thờ Mái Vòm đá tảng là đền Hồi giáo cổ kính nhất tại Thánh Địa, lần đầu tiên được xây hồi năm 640 và 47 năm sau đó được thay thế bằng Đền thờ như hiện nay, có hình bát giác, 8 phía đều được trang điểm bằng ngọc quí, và phần dưới bằng cẩm thạch đa sắc. Vật liệu xây cất Đền thờ này lấy từ các thánh đường và đền đài trước đó thời Bizantine và Roma. Thứ hai là Đền thờ Al-Aqsa được kiến thiết hồi thế kỷ thứ 8 và đã trải qua nhiều lần tái thiết.

Theo thoả ước Nguyên Trạng, do Hoàng Ðế Thổ Nhĩ Kỳ Osamn Ðệ Tam đưa ra vào năm 1853, khu vực Núi Đền thuộc quyền tài phán của Jordan. Kể từ khi Israel bắt đầu chiếm đóng vùng phiá Đông Jerusalem và khu Cổ Thành Jerusalem vào năm 1967, người Do Thái đã được phép đến thăm vùng này - nhưng không được cầu nguyện. Khu vực này được điều hành bởi các cơ quan chức năng Hồi giáo dưới sự giám hộ của Jordan.

Trong thời gian gần đây, nhiều nhóm Do Thái Giáo đã tụ tập ngày càng nhiều tại khu vực này khiến người Hồi Giáo lo sợ Do Thái đang âm thầm muốn chiếm khu vực này.

Trong cuộc đụng độ hôm thứ Tư 4 tháng 11, một đám đông người Palestine từ bên trong đền thờ Hồi giáo Al-Aqsa, đã ném đá và pháo vào các lực lượng an ninh trước chuyến thăm theo dự trù của một nhóm người Do Thái. Cảnh sát chống bạo Israel đáp trả bằng cách bắn lựu đạn cay để giải tán đám đông.

Azzam Khabib, viên chức Hồi Giáo tại núi Đền nói là các nhà lãnh đạo Hồi giáo đã kêu gọi Israel không cho phép người ngoài Hồi giáo vào khu vực vì tình hình đang căng thẳng. Tuy nhiên, ông cho biết khoảng 300 cảnh sát Israel đã đi vào khu vực vào sáng sớm, gây ra các vụ đụng độ.

Ngay sau khi cuộc đụng độ hôm thứ Tư, một tài xế người Palestine đã đâm chiếc xe van của mình vào một đám đông chờ đợi cho một chuyến tàu, giết chết viên cảnh sát và làm bị thương hơn một chục người khác. Một cuộc tấn công tương tự cũng đã diễn ra vào hai tuần trước.

Buổi tối thứ Tư, một người tài xế khác cũng bất ngờ tông vào một nhóm lính Do Thái làm 3 người bị thương. Hung thủ sau đó đã tự nộp mình cho lực lượng an ninh Do Thái vào ngày thứ Năm.

Jordan đã triệu hồi đại sứ về nước để phản đối Do Thái.

Posted By Đỗ Lộc Sơn16:34

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

Đức Thánh Cha kêu gọi canh tân nội tâm

Filled under:


VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu Kitô canh tân nội tâm để có thể thực thi cuộc đối thoại đại kết Kitô đích thực.
Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 24-10-2014, dành cho 45 tham dự viên cuộc hành hương của tổ chức Lumen Orientale, Ánh Sáng đông phương, dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Kállistos của giáo phận Diokleia.
ĐTC nói: ”Mỗi cuộc hành hương theo tinh thần Kitô giáo không phải chỉ là một hành trình địa lý, nhưng nhất là dịp hành trình canh tân nội tâm để ngày càng tiến về Chúa Kitô hơn, ”Đấng mang lại nguồn gốc cho đức tin và làm cho đức tin tới độ viên mãn” (Dt 12,2). Những chiều kích này rất quan trọng để tiến bước trên con đường dẫn đến hòa giải và hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả những người tin nơi Chúa Kitô. Sẽ không có một cuộc đối thoại đại kết chân thực nếu không có sự sẵn sàng can tân nội tâm và tìm kiếm sự trung thành mạnh mẽ hơn đối với Chúa Kitô và thánh ý Chúa”.
ĐTC cũng ca ngợi chủ ý của đoàn hành hương theo vết hai thánh Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2, vì những đóng góp rất lớn của các ngài cho sự phát triển ngày càng thắm thiết giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống. Ngài nói: ”Tấm gương của hai vị thánh này chắc chắn soi sáng cho tất cả chúng ta, vì hai vị luôn chứng tỏ lòng hăng say đối với sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, xuất phát từ sự ngoan ngoãn lắng nghe ý Chúa, trong bữa tiệc ly Chúa đã cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ của Người trở nên một” (Ga 17,21) (SD 24-10-2014)
G. Trần Đức Anh OP

Xin Cho Con Ðược Thay Ðổi Chính Con
Một triết gia Ấn Ðộ đã nhìn lại quãng đời đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Ðế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Ðến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Ðế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ ... Theo trật tự của cuộc cạch mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện ... Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn: Thà thắp lên một ngọn đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ ... Không ai nghèo đến nỗi không có gì để cho người khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có khi vô danh của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là điều không đáng kể trong đại dương, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia cũng sẽ chỉ là sa mạc khô cằn.

Posted By Đỗ Lộc Sơn15:30

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2014

Sứ Điệp Của Thượng Hội Đồng Ngoại Thường Về Gia Đình Gởi Cho Cộng Đoàn Dân Chúa Trên Thế Giới

Filled under:

Gởi cộng đoàn Dân Chúa

"Chúng tôi, các nghị phụ của Thượng Hội Đồng, tập trung tại Rôma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thượng Hội Đồng Ngoại Thường, gởi lời chào đến tất cả các gia đình ở các châu lục khác nhau và đặc biệt là tất cả những ai đang tiến bước theo Chúa Kitô, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Chúng tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn đối với những chứng tá hàng ngày mà anh chị em đưa ra cho thế giới với sự trung tín, đức tin, hy vọng và tình yêu của anh chị em.

Mỗi người chúng tôi, các vị mục tử của Giáo Hội, lớn lên trong một mái gia đình, và chúng tôi đến từ những bối cảnh và kinh nghiệm rất đa dạng. Là những linh mục và giám mục, chúng tôi đã từng sống cùng với các gia đình, những người đã chuyện trò với chúng tôi và trình bày cho chúng tôi thấy những câu chuyện về niềm vui và khó khăn của họ.

Việc chuẩn bị cho cuộc họp Thượng Hội Đồng này, được bắt đầu với bản câu hỏi được gửi đến các Giáo Hội trên toàn thế giới, đã cho chúng tôi cơ hội để lắng nghe những kinh nghiệm của nhiều gia đình. Cuộc thảo luận của chúng tôi tại Thượng Hội Đồng này giúp chúng tôi làm phong phú lẫn nhau, giúp chúng tôi nhìn vào các tình huống phức tạp mà các gia đình ngày nay phải đối mặt.

Chúng tôi muốn gởi đến anh chị em những lời này của Chúa Kitô:
"Nầy đây, Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa, Ta sẽ vào nhà và dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ ở cùng Ta.
Trên hành trình của Ngài qua các nẻo đường Thánh Địa, Chúa Giêsu thường vào những ngôi nhà trong các làng mạc.
Ngay cả ngày nay, Ngài vẫn tiếp tục đi qua những đường phố của chúng ta. Trong ngôi nhà của anh chị em có ánh sáng và bóng tối. Những thách đố và đôi khi thậm chí cả những gian nan vẫn thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống. Bóng tối có thể phát triển sâu đến mức trở thành một màn đêm dày đặc khi xấu xa và tội lỗi len vào vào trung tâm của gia đình.

          Chúng tôi nhìn nhận có những thách đố lớn lao để trung thành trong tình yêu vợ chồng. Đức tin yếu đuối và sự thờ ơ với những giá trị đích thực, chủ nghĩa cá nhân, các mối quan hệ bị làm nghèo nàn đi, và những căng thẳng khiến con người không còn có thể suy tư chín chắn để lại những vết thẹo trong cuộc sống gia đình.
Quá thường khi những khủng hoảng trong hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng và người ta không có can đảm, kiên nhẫn và suy tư chín chắn để hy sinh và tha thứ cho nhau.
Những thất bại làm gia tăng các mối quan hệ mới, các cặp vợ chồng mới, các kết hợp dân sự mới, và những cuộc hôn nhân mới, tạo ra những hoàn cảnh gia đình rất phức tạp và khó giải quyết, trong đó lựa chọn Kitô trong cách hành động không phải là mặc nhiên.
Chúng tôi cũng nghĩ đến những gánh nặng áp đặt bởi cuộc sống trong những khổ đau có thể xảy ra khi con cái cần phải được chăm sóc đặc biệt, khi bệnh tật nghiêm trọng ập đến, trong sự suy thoái của tuổi già, hoặc trong cái chết của một người thân yêu.
Chúng tôi ngưỡng mộ lòng trung thành của rất nhiều gia đình đã phải chịu đựng những thử thách với lòng dũng cảm, đức tin và tình yêu. Họ thấy đó không phải là một gánh nặng gây ra để làm khổ họ, nhưng là một cái gì đó mà chính qua đó họ nhìn thấy Chúa Kitô đang đau khổ trong thể xác yếu đuối của mình.
Chúng tôi nhớ đến những khó khăn gây ra bởi hệ thống kinh tế bị thống trị bởi "sự sùng bái ngẫu tượng tiền bạc và tính chất độc tài của một nền kinh tế phi nhân thiếu vắng một cùng đích nhân bản thực sự" đang làm suy yếu phẩm giá con người.
Chúng tôi nghĩ đến những người làm cha làm mẹ đang thất nghiệp, là những người bất lực trong việc cung cấp những nhu cầu cơ bản cho gia đình mình, và những thanh niên đang đối diện với một viễn ảnh trống rỗng, những người là miếng mồi ngon cho ma túy và tội phạm.
Chúng tôi nghĩ đến rất nhiều những gia đình nghèo, những người bám víu vào những con thuyền mong manh hy vọng đến được một bến bờ sống sót, những người tị nạn lang thang vô vọng trong sa mạc, những người bị bách hại vì đức tin và vì những giá trị nhân bản và tinh thần mà họ đề cao. Đó là những người bị ảnh hưởng bởi sự tàn bạo của chiến tranh và áp bức.
Chúng tôi nhớ đến những người phụ nữ bị bạo hành và khai thác, là nạn nhân của tệ buôn bán người, những trẻ em bị lạm dụng bởi những người lẽ ra phải bảo vệ họ và thúc đẩy sự phát triển của họ, và các thành viên của rất nhiều gia đình đã bị suy thoái lại còn phải đương đầu với những gánh nặng khó khăn chồng chất.
"Nền văn hóa của sự thịnh vượng đang làm chúng ta chết dần mòn .... tất cả những người đang phải còi cọc trong cuộc sống vì thiếu cơ hội dường như chỉ là một cảnh tượng không hơn không kém; không còn làm chúng ta mủi lòng ".
Chúng tôi kêu gọi các chính phủ và tổ chức quốc tế hãy thúc đẩy các quyền của gia đình vì lợi ích chung.
Chúa Kitô muốn Giáo Hội của Người là một ngôi nhà luôn mở rộng cửa chào đón tất cả mọi người. Chúng tôi nhiệt liệt cảm ơn các vị mục tử của chúng ta, những anh chị em giáo dân trung thành, và các cộng đồng đang đồng hành với các cặp vợ chồng và các gia đình, và đang chăm sóc cho vết thương của họ.
Cũng có ánh đèn đêm tỏa sáng rực rỡ làm ấm áp thể xác và tâm hồn con người đằng sau những ô kính cửa sổ trong những ngôi nhà thành phố, trong những mái nhà khiêm tốn ở vùng ngoại ô và trong các làng mạc, và thậm chí trong các túp lều. Ánh sáng này - ánh sáng của một mối lương duyên - tỏa sáng từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một ân sủng, một hồng ân được thể hiện như trong Sách Sáng Thế khi hai người "mặt đối mặt" như những người giúp đỡ lẫn nhau và bình đẳng.
Tình yêu của người nam và người nữ dạy chúng ta rằng mỗi người cần đến người khác để mình được thực sự là mình. Mỗi người vẫn khác với người kia nhưng tự mở mình ra và hiểu mình hơn trong ân sủng hỗ tương này. Chính vì thế mà cô dâu trong Diễm Tình Ca đã hát bài ca vịnh của mình: “Người tôi yêu thuộc trọn về tôi và tôi trọn vẹn thuộc về chàng .”
Cuộc gặp gỡ đích thực này bắt đầu với sự theo đuổi nhau, với một thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó được hiện thực hóa trong bí tích mà Thiên Chúa đóng lên dấu ấn của Ngài với sự hiện diện của Ngài, và ân sủng. Con đường này cũng bao gồm các mối quan hệ tình dục, sự dịu dàng, thân mật, và vẻ đẹp có khả năng kéo dài sức sống và sự tươi mát của tuổi trẻ. Tình yêu như thế, tự bản chất của nó, cố gắng kéo dài mãi mãi đến độ dám hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Trong ánh sáng này tình yêu phu phụ, là duy nhất và bất khả phân ly, mới được bền vững dù gặp bao gian nan thử thách. Tình yêu ấy là một trong những phép lạ đẹp nhất và phổ biến nhất.
Tình yêu này lây lan qua khả năng sinh sản và thông truyền cho thế hệ trẻ, trong đó bao gồm không chỉ việc đón nhận con cái nhưng còn là trao ban món quà của sự sống thiêng liêng qua việc rửa tội, dạy giáo lý, và giáo dục con cái. Nó bao gồm khả năng trao ban cuộc sống, tình cảm, và các giá trị - một kinh nghiệm có thể thực hiện ngay cả bởi những người không thể sinh con. Các gia đình sống tràn ngập trong ánh sáng này trở thành một dấu chỉ cho tất cả, đặc biệt là cho những người trẻ.
Cuộc hành trình này đôi khi là một chuyến leo núi dốc dác đầy những khó khăn và vấp ngã. Thiên Chúa luôn luôn ở đó để đi cùng với chúng ta. Các gia đình cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài trong tình cảm và trong cuộc đối thoại giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em. Họ đón nhận Ngài trong lời cầu nguyện gia đình và trong việc lắng nghe Lời Chúa – như một ốc đảo nhỏ để nương tựa tinh thần hàng ngày.
Họ nhận ra Ngài mỗi ngày khi họ giáo dục con cái trong đức tin và trong vẻ đẹp của một đời sống theo Tin Mừng, một cuộc sống thánh thiện. Ông bà cũng chia sẻ nhiệm vụ này với tình cảm tuyệt vời và sự tận tụy. Như thế, gia đình là một Giáo Hội đích thực mở rộng ra thành cộng đồng Giáo Hội là gia đình của các gia đình. Các đôi vợ chồng Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những thầy dạy về đức tin và tình yêu cho những cặp vợ chồng trẻ.
Một biểu hiện khác của sự hiệp thông huynh đệ là tình bác ái, là sự cho đi, là sự gần gũi với những người ở tận cùng của xã hội, những người chịu thiệt thòi, người nghèo, người cô đơn, người bệnh tật, những người xa lạ, và các gia đình đang trong cuộc khủng hoảng, với nhận thức từ lời Chúa rằng "Cho thì có phúc hơn là nhận".
Đó là ân sủng của những điều thiện, của tình bạn, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá cho sự thật, ánh sáng, và ý nghĩa của cuộc sống.
Đỉnh cao tổng hợp tất cả những mối dây hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân là việc cử hànhThánh Thể Chúa Nhật khi gia đình và toàn thể Giáo Hội ngồi đồng bàn với Chúa. Ngài ban chính mình cho tất cả chúng ta, những người lữ hành qua dòng lịch sử hướng tới mục tiêu là cuộc gặp gỡ cuối cùng khi "Chúa Kitô là tất cả và trong tất cả".
Do đó, trong giai đoạn đầu tiên của chương trình nghị sự tại Thượng Hội Đồng này, chúng tôi đã suy tư về những cách thế để đi cùng với những người đã ly dị và tái hôn; và về sự tham gia của họ trong các bí tích.
Chúng tôi, các nghị phụ tại Thượng Hội Đồng xin anh chị em đồng hành với chúng tôi tại Thượng Hội Đồng tiếp theo. Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse dưới mái nhà khiêm tốn của các Ngài vẫn hiện diện trên anh chị em. Hiệp với Thánh Gia Nazareth, chúng ta dâng lên Chúa Cha lời thỉnh cầu của các gia đình trên thế giới:

Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình sự hiện diện mạnh mẽ và khôn ngoan của những đôi vợ chồng, là những người có thể là nguồn mạch cho một gia đình tự do và hiệp nhất.

Lạy Cha, xin ban cho những bậc cha mẹ có thể có một mái nhà, để sống trong an bình với gia đình họ.

Lạy Cha, xin cho những trẻ em có thể là một dấu chỉ của sự tin cậy và hy vọng và cho những người trẻ tuổi có can đảm để chấp nhận những cam kết lâu dài, và trung tín.

Lạy Cha, xin cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hàng ngày với đôi tay của họ, xin cho họ có thể tận hưởng sự thanh thản về tinh thần và có thể giữ cho ngọn đuốc đức tin bùng cháy ngay cả trong những thời kỳ bóng tối.

Lạy Cha, xin ban cho tất cả chúng con được thấy một Giáo Hội phát triển mạnh, trung thành và khả tín hơn bao giờ hết, một thành phố công lý và nhân bản, một thế giới yêu mến sự thật, công lý và lòng thương xót ".

Posted By Đỗ Lộc Sơn19:13

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2014

Thần Học Bối Cảnh ( LM Hà Như Minh - Hình Như Ma )

Filled under:

 
  
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Posted By Đỗ Lộc Sơn01:59