Hiển thị các bài đăng có nhãn SUY NIỆM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SUY NIỆM. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Các Vị Tử Đạo Mới Của Thời Đại (trích Trong ‘niềm Vui Chia Sẻ ')

Filled under:

Mỗi lần nói đến các thánh tử đạo, là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh đầu rơi, máu đổ, gông cùm, gươm giáo … Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần tới Thế kỷ 21, những cảnh hành trình tàn bạo, cổ điển ngày xưa và sự bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự trên thế giới.

Ngày nay, khái niệm về tử đạo được hiểu rộng rãi hơn. Vì tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức, nói chung là chết vì chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Maximilianô Kolbê, ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình, trong trại tập trung của Đức Quốc xã. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi Cha là vị tử đạo, chỉ coi Cha là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (Confessor). Nhưng khi phong thánh cho cha vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi cha là một vị tử đạo. Trong bài giảng phong thánh cho Cha Kolbê, Đức Thánh Cha nói: “Cái chết được cha hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm cho cha Kolbê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?”

Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba” (TMA), Đức Thánh Cha kêu gọi các Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh”vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thày về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những Giám mục, Linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (TMA. 37).

Anh chị em thân mến,
Các Thánh Tử đạo là những người sống, làm chứng, loan truyền mầu nhiệm Thánh giá. Mỗi Kitô hữu, dầu không phải trải qua cái chết tử đạo thì đời sống vì đạo, sống vì Chúa, cho Chúa, cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm Thập giá cho thế giới. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân.

Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam ngày xưa đã dùng Thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá Khóa”để dùng Thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết: bước qua hay không bước qua Thập giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quý vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân …

Đã có người bước qua và đã có nhiều người không bước qua, không quá khóa. Đã có người được khiêng qua Thập giá, nhưng đã co chân lên, như Thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua Thập giá, nhưng sau lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh Augustino Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể và Đaminh Đinh Đạt. Vua Quan đã bày ra trước mặt các ông 10 cây vàng, một tượng Chúa Chịu Nạn và một thanh gươm, rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua Thánh giá, để quan có cớ mà tha cho, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước Thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hòa hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.

Không bước qua Thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thầy Chí Thánh, Đấng đã chịu chết trên Thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua Thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin mà còn là những chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu mến bằng một tình yêu lớn nhất: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Cuối cùng, các vị Tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đàng sau cái chết tạm thời. Họ thấy Thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế, cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt.

Anh chị em thân mến,
Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kolbê, của Mẹ Têrêsa Calcutta, của các tu sĩ bị ám sát ở Algêri, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phụ vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn hút vào cơn lốc của hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô vụ lợi? Làm chứng bao giờ cũng là lội ngược dòng thế gian. Các Thánh Tử đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước Thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến tận cùng. Hãy đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.

Posted By Đỗ Lộc Sơn13:43

Lời sống hôm nay 17/11/2014

Filled under:

17/11/14 THỨ HAI TUẦN 33 TN
Th. Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri Lc 18,35-43
LÒNG TIN CỦA ANH ĐÃ CỨU CHỮA ANH
“- Lạy ông Giê-su con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! - Anh muốn tôi làm gì cho anh ? - Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy ! - Anh hãy thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 18,38-42)
Suy niệm: Trong việc Chúa chữa người mù hôm nay, có một thông điệp cần được lưu tâm và đào sâu thích đáng. Chúa Giê-su không nói: “Ta cứu chữa anh”, nhưng Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” Người cho thấy tác nhân của sự cứu chữa là chính lòng tin của đương sự. Và đây không phải là lần duy nhất Chúa Giê-su tuyên bố điều này. Chúa cũng đã nói như thế: với người đàn bà bị băng huyết (Lc 8,48), với ông đại đội trưởng Rô-ma (Mt 8,13), với hai anh mù (Mt 9,29), với người phụ nữ Ca-na-an có đứa con gái bị quỉ ám (Mt 15,28), v.v... Sau này, thánh Phao-lô sẽ xác nhận mạnh mẽ rằng vai trò chữa lành và cứu độ thuộc về đức tin chứ không thuộc về Lề Luật (x. Rm 1,16-11.36; Gl 3,15-29).
Mời Bạn: Xác tín vững chắc rằng lòng tin vào Đức Ki-tô đồng nghĩa với sự chữa lành. Ơn cứu độ của Thiên Chúa đã dành sẵn cho chúng ta nơi Đức Ki-tô, như một tấm ngân phiếu đã ký sẵn! Chỉ cần điền thêm lòng tin của chúng ta. Lòng tin của chúng ta sẽ cứu chữa chúng ta!
Sống Lời Chúa: Đừng vội thắc mắc tại sao Chúa không chữa lành cho mình về bệnh này tật nọ. Bạn đang cần sự chữa trị loại nào (thể lý, tâm lý, tâm linh)? Và bạn hãy tự hỏi lòng tin của mình vào Thầy Thuốc Giê-su đang ở mức nào. (Chẳng hạn, bạn đánh giá thế nào về ý nghĩa của mỗi lần mình rước lễ?)
Cầu nguyện: Đọc Kinh Xin Chúa Thương Xót, với tất cả lòng thành, mỗi câu 2 lần.

 
Ngày 17 tháng 11
THÁNH ELISABÉT HUNGARI
Elisabét sinh năm 1204 giữa cảnh phồn hoa náo nhiệt trong triều đình vua Anrê II, nước Hungari. Ai cũng tưởng rằng đời Elisabét sẽ là đời sống trên nhung lụa, nhưng thực tế đã trái hẳn với sự phán đoán của loài người.
Thời ấy, vua xứ Turinge nước Đức mở yến tiệc khoản đãi những công hầu khanh tướng có công với nhà vua. Đang bữa tiệc, vua cho triệu tập một nghệ sĩ đến ngâm thơ ca hát giúp vui và trình bày những chiến thuật cho khách tiệc nghe. Sau khi ca hát, nghệ sĩ nọ như được ơn soi sáng đã tâu lên rằng: "Tâu bệ hạ, hạ thần vừa nhận được một tin mới và lại là tin rất vui mừng: đêm vừa qua Hoàng hậu nước Hungari vừa sinh hạ một công chúa, công chúa ấy lớn lên sẽ sánh duyên cùng hoàng tử của bệ hạ. Nàng sẽ nên thánh cả và sẽ làm rạng danh Giáo hội và nước Hungari. Nhà vua nghe vậy rất bỡ ngỡ, vì Turinge cách xa nước Hungari trăn ngàn dặm đường; như vậy làm sao nghệ sĩ kia có thể biết được nếu không phải Đức Chúa Trời đã soi sáng cho. Vì thế vua xứ Turinge cấp tốc sai sứ giả đến xem xét tình thế thực hư ra sao… Quả thật, sứ giả đã gặp đúng y như lời nghệ sĩ kia nói trước.
Mặc dầu Elisabét còn ít tuổi, nhưng lòng đạo đức của cô đã đánh động nhiều người, nhiều chàng con những công hầu khanh tướng đã rắp ranh muốn được kết tóc xe duyên với cô. Thấy vậy, vua xứ Turinge đã cho phái đoàn sang Hungari mối lái để xin cưới công chúa cho hoàng tử Louis.
Nghĩ đến việc trở về đoàn tụ với hoàng tử Louis, lòng Êlisabét nao nao buồn, phần vì phải xa cha mẹ, phần vì thấy cuộc đời xa hoa nơi cung điện nguy nga hầu như không hợp với tâm hồn mình, Êlisabét muốn sống một cuộc đời nghèo nàn để dễ thương giúp những người cùng cực, xấu số, bệnh hoạn mà xã hội đã bỏ rơi. Nhưng phải vâng lệnh vua cha, công chúa Êlisabét đã ngậm ngùi bước lên xe hoa về Turinge giữa một đám rước vô cùng linh đình do triều đình tổ chức. Sống trong lâu đài lộng lẫy nguy nga, Êlisabét lại muốn bắt chước cảnh sống Đức Mẹ ở Nagiarét xưa, nên hằng ngày thánh nữ vẫn làm tất cả những việc tầm thường của một tôi tớ trong triều như giặt quần áo, quét nhà, dọn bàn... Chả thế mà lúc ấy có người đã nói rằng: công chúa mà hãm mình cầu nguyện hơn cả vị tu hành.
Cuộc sống khem khổ của Êlisabét đã nhiều lần làm cho chồng phải bực mình, nhưng khi Êlisabét biện bạch thì hoàng tử Louis lại lấy làm cảm phục cuộc sống như thế. Do đó, dần dà chồng cũng nhiễm lây tinh thần đạo hạnh của vợ và làm cho cả nước phải trầm trồ khen ngợi. Trong khi còn sống trong hoàng triều, nhiều lần thánh nữ đã trốn vua cha ra đi mang theo tiền bạc, đến sống trong những nhà mồ côi để tắm rửa, vỗ về những đứa trẻ bạc số. Tâm hồn thánh nữ lúc nào cũng hướng về những người đói khổ, nhưng địa vị xã hội chưa cho phép ngài được sống hòa lộn với họ. Vì thế, ngày đêm thánh nữ hằng cầu nguyện để được thi hành ý định ấy.
Thiên Chúa nào có phụ những tâm hồn có thiện chí. Thực vậy, khi vua cha băng hà, hoàng tử Louis lên nối ngôi. Lúc này thánh nữ được dễ dàng giúp đỡ những người cùng quẫn nhiều hơn, vì vua Louis cũng tán thành những công việc từ thiện của thánh nữ. Chẳng bao lâu, Êlisabét đã xây được một nhà thương đồ sộ ở ngay bên cạnh hoàng cung, có thể dung nạp được mấy trăm bệnh nhân, lại có khu nuôi dưỡng những người nghèo khổ hay già cả. Hằng ngày thánh nữ coi việc đi an ủi, giúp đỡ những bệnh nhân là một món ăn thích thú cho tâm hồn. Người ta thuật lại rằng: một hôm, khi Êlisabét ra khỏi cung điện, mang theo hoa quả, bánh trái cho bệnh nhân, vua bắt gặp, liền âu yếm hỏi: "Em đi đâu và mang theo gì đấỷ". Thánh nữ liền mở vạt áo choàng cho chồng xem thì chỉ thấy toàn là những hoa hồng tươi đẹp tỏa mùi hương thơm lạ lùng.
Bấy giờ là mùa đông, hoa lá đều tàn trụi cả, vua Louis nhận biết đó là ơn Chúa ban cho gia đình mình, nên càng đem lòng kính nể, yêu thương hoàng hậu và trao tất cả của cải trong triều để thánh nữ tự do sử dụng mà làm việc thiện. Có lẽ thánh nữ đã say mê lời Chúa Giêsu: "Con làm điều gì cho kẻ rốt hết trong những người này là làm cho Cha vậy", nên ngài thường hay đi đó đây để lượm lặt những trẻ bị bỏ rơi mang về nhà săn sóc, nuôi nấng.
Có lần gặp một đứa trẻ bị phong cùi, mình mẩy chốc lở hôi thối, thánh nữ đã bế mang về tắm rửa, lau chùi, nuôi nấng cẩn thận trong buồng mình. Hoàng thái hậu thấy vậy lấy làm khó chịu, nói với vua phải vào buồng Hoàng hậu đem đứa trẻ sang viện mồ côi cho người ta nuôi nấng. Vừa vào buồng, tới gần giường đứa trẻ nằm, thì không thấy đứa trẻ đâu mà chỉ thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang nằm trên giường, mắt mở to, âu yếm nhìn hoàng thái hậu và vua Louis. Cảm động, cả hai quỳ phục dưới đất thờ lạy Chúa Giêsu. Khi ngửa mặt lên, họ chỉ còn thấy đứa trẻ đang oe oe khóc… Hai người không dám thi hành ý định ấy nữa.
Được toàn quyền sử dụng tiền của trong hoàng cung, thánh nữ đã cho xây một nhà dòng dâng cho các cha dòng Phanxicô, và thánh nữ đã xin nhập dòng Ba. Sau sáu năm sống trong hoàng triều, Êlisabét đã sinh hạ được hai trai hai gái. Cảnh gia đình vẫn ấm cúng, dân chúng được thịnh vượng no ấm, người người hoan hỉ ca tụng công đức của hoàng hậu. Nhưng Chúa muốn chiếm đoạt tâm hồn Êlisabét cho trọn vẹn, nên đã để ngài phải chịu nhiều thử thách cam go.
Lúc ấy Hoàng đế nước Đức muốn triệu tập các vua chư hầu sang Giêrusalem đánh quân Hồi hồi để lấy lại đất thánh đã bị địch quân chiếm giữ. Vua Louis cũng tạm trao quyền cai dân trị nước cho người em là Henricô để lên đường chinh phạt quân Hồi giáo. Êlisabét cũng tiễn chân vua Louis hai ngày, rồi trở về hoàng cung nuôi nấng con cái. Nào ai biết đấy là cuộc vĩnh biệt giữa hoàng hậu và Hoàng đế! Tin Hoàng đế bị địch quân giết chết đã như tiếng sét đánh ngang tai, làm hoàng hậu chết ngất đi hồi lâu. Nhưng thánh nữ không hề mở miệng kêu trách một lời mà chỉ nguyện vâng theo ý Thiên Chúa.
Từ đây ngài muốn cuộc đời còn lại thành một của lễ hy sinh để đền tội cho dân chúng. Nghe tin anh đã chết, vua Henricô chính thức lên chiếm ngai vàng, và vì sợ mấy cậu bé kia lớn lên sẽ cản trở cho ngai báu của mình, nên ông đã lên mặt nạt nộ và tống cổ mẹ con Êlisabét ra khỏi triều đình. Êlisabét ra đi với hai bàn tay trắng; những người trước kia đã được thánh nữ giúp đỡ nay trở mặt chửi bới, sỉ nhục người thiếu phụ góa bụa ấy. Không tìm được chỗ trú thân, mẹ con Êlisabét phải vào trú nhờ trong một chuồng ngựa của một nhà phú hộ. Trong túp lều ấy, thánh nữ đã cảm thấy Chúa Giêsu gần gũi mình hơn trước. Lần đầu tiên bước chân vào chuồng ngựa, ngài đã thốt lên những lời sốt sắng cảm động: "Lạy Chúa, xưa Chúa đã sinh ra khó nghèo trong chuồng trâu bò, bây giờ con cũng gặp cảnh ấy vì tội lỗi con; trước đây con đã ước ao được giũ sạch những quyến rũ của cải trần gian, nay Chúa đã cho con được như ý nguyện, con xin cảm tạ lòng nhân lành Chúa, xin cho con được vâng theo ý Chúa luôn luôn". Rồi hai tháng liền như vậy, ngày ngày thánh nữ phải ra chợ ăn xin để nuôi con.
Bên quê nhà nghe biết sự thể ấy, vua cha Êlisabét bực mình hết sức, đã toan đem binh sang chinh phạt vua Henricô. Nhưng đoàn quân trước kia đi theo vua Louis trở về bắt vua Henricô phải trả lại ngôi báu cho con chính thức của vua Louis. Sợ ngoại bang xâm chiếm, lo lòng dân oán hờn, vua Henricô đã ăn năn hối hận và rước mẹ con Êlisabét về và trao trả ngôi vua cho người con cả.
Thánh nữ tha thứ tất cả. Trở về cung điện ít lâu, rồi ngài ra ở nơi hẻo lánh, ngày đêm hãm mình cầu nguyện và giúp đỡ bệnh nhân trong các nhà thương. Cuộc đời thánh nữ cứ kéo dài trong những công việc âm thầm lặng lẽ ấy. Năm 1231, sau hơn một tháng nằm tê liệt trên giường bệnh, thánh nữ đã nhè nhẹ thở than: "Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con". Rồi ngài từ trần trong một gian nhà lụp xụp. Thánh nữ Êlisabét đã bỏ tất cả để theo Chúa thì ngài cũng đã nhận được tất cả. Vì thế, ngày ngài qua đời, gian nhà nhỏ bé kia đã trở nên như một bầu trời trong sáng đầy hương hoa thơm ngát.



Posted By Đỗ Lộc Sơn13:28

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Lời sống hôm nay 16/11/2014

Filled under:

16/11/14 CHÚA NHẬT TUẦN 33 TN – A
Kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam Mt 25,14-30
NIỀM VUI CỦA THIÊN CHÚA
“Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.” (Mt 25,21)
Suy niệm: 1/ Ông chủ trong dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài giao cho mỗi người một phận vụ và không đòi hỏi ai quá sức mình. Ngài không coi trọng người được giao năm yến hon người được giao một yến. Tài sản Ngài có bao nhiêu, Ngài giao tất cả. Hết sức tin tưởng. Ngài lên đường đi xa. 2/ Có vẻ như cái lỗi lớn nhất của người đầy tớ thứ ba là không làm việc, không sinh lời. Xét kỹ hơn, nguyên nhân sâu xa chi phối những hành động này là anh ta đã có một hình ảnh méo mó về Thiên Chúa: đối với anh, ông chủ là một người hà khắc, đòi hỏi, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Anh sợ hãi chứ không yêu mến. 3/ Ngày tính sổ, Thiên Chúa – ông chủ – xuất hiện như một người Cha: vui mừng thấy vốn đã sinh lời. Nhưng… Ngài không giữ lại cho mình, mà giao hết cả vốn lẫn lãi cho người biết làm việc; ai sinh lời Ngài lại ban thêm. Niềm vui của Ngài, đó là thấy rằng chúng ta đã làm việc và sinh lời cho chính chúng ta.
Mời Bạn: Những gì bạn đang có chính là những yến bạc mà Thiên Chúa giao cho bạn để sinh lời. Đối với bạn Thiên Chúa là ai, là ông chủ hà khắc hay là Người Cha yêu thương?
Chia sẻ: Có phải Thiên Chúa đã bất công khi lấy yến bạc của người đầy tớ thứ ba mà giao cho người có mười yến không? Nếu người này sinh lời, đâu là lời khen mà anh sẽ nhận được?
Sống Lời Chúa: Chu toàn bổn phận của ngày hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm cho con lòng tin tưởng và yêu mến, đừng để con nhìn xuôi ngó ngược, phân bì với người khác, nhưng hết lòng hết sức thi hành phận vụ Chúa đã giao.
Ngày 16 tháng 11
THÁNH MAGARITA HOÀNG HẬU XỨ SCỐTLEN
THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH
THÁNH MAGARITA HOÀNG HẬU XỨ SCỐTLEN
(+1093)
"Duyên sắc nở trên miệng người. Vì Thiên Chúa đã chúc phúc cho người đời đời và trong huy hoàng mỹ lệ, người vui sướng tiến lên và thống trị".
Phải chăng Giáo hội còn lời nào đẹp hơn để ca khen các nữ tôi tớ của Thiên Chúa, và cách riêng thánh nữ Magarita mà chúng ta đọc truyện hôm nay!
Tuy ra đời giữa lúc gia đình gặp cảnh lưu vong, Magarita vẫn được may mắn sống những ngày thơ ấu êm đềm và hưởng thụ một nền giáo dục chu đáo về hai phương diện trí dục và đức dục.
Năm 1054, lúc đó Magarita lên 10 tuổi, vua Canút băng hà, gia đình Magarita trở về nước. Nhưng không được mấy năm thì ông cậu ngài là thánh Êđua qua đời và những vụ sát hại lại lan tràn. Nhiều cuộc tranh chấp giữa Harold và Guillaume Normandi xảy ra, bắt buộc gia đình thánh nữ lại phải di cư sang miền Scốtlen. Trên đường đi, cha ngài từ trần, phủ lên đầu thánh nữ tấm khăn tang đầy đau xót.
Sang tới Scốtlen, cả gia đình Magarita được vua Malcolm III đón tiếp nồng hậu. Sự giúp đỡ của nhà vua và nhân dân bản xứ đã băng bó vết thương của cả gia đình trong cảnh lưu lạc… Hơn thế, quãng năm 1070, nhà vua còn ngỏ ý xin cưới Magarita. Tâm đầu ý hợp, một lễ "cưới quốc gia" được cử hành rất trọng thể tại Dunfermline trong ba ngày. Dân chúng Scốtlen hân hoan đón tiếp tân Hoàng hậu vừa có nhan sắc lại vừa có đức hạnh.
Trong cuộc đời mới, Magarita hằng tâm niệm sẽ chu toàn bổn phận của một người vợ, người mẹ và Hoàng hậu hầu thánh hóa bản thân và làm gương sáng cho mọi người. Quả thế, nếu trước khi lập gia đình, thánh Magarita nổi tiếng là một thiếu nữ thánh thiện, duyên dáng trong đoan trang, dịu hiền trong bác ái, thì từ khi lãnh sứ mệnh mới, ngài càng tỏ ra xứng đáng với ơn Chúa và sự mong đợi của mọi người. Chép lịch sử triều vua Malcolm III, một sử gia đã viết: "Xứ Scốtlen cường thịnh nhờ có quân vương Malcolm III, tài khéo và chính trực, nhất là nhờ ở một bà Hoàng hậu, kể được là duy nhất trong lịch sử, với nhiều nhân đức cao cả. Chính ngài đã giúp đỡ nhà vua, làm gương cho các quan và lôi cuốn toàn dân tiến vào con đường ánh sáng". Thực vậy, nhờ sự khuyên bảo của Hoàng hậu, nhà vua không bao giờ dám chiều theo khuynh hướng xấu hay làm một điều gì tai ác. Cũng vì kính trọng văn hóa và sự khôn ngoan của Hoàng hậu, nhà vua còn để toàn quyền cho Hoàng hậu trong việc hoạch định chương trình giáo huấn dân chúng Scốtlen theo tinh thần Phúc âm. Hoàng hậu Magarita vì vậy đã nỗ lực gây tinh thần đạo đức cho thần dân. Nhờ ngài, số giáo dân rước lễ mùa Phục sinh đã tăng lên gấp bội, và nhiều gia đình rối được điều chỉnh lại cho hợp thức. Thánh nữ còn tập cho dân giữ mùa chay ngay từ ngày lễ tro, đúng như thói quen của Giáo hội. Sau cùng, được sự thoả thuận của nhà vua, Hoàng hậu đã cho xây cất một thánh đường trang hoàng rất lộng lẫy dâng kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng trong hoàng cung thánh nữ đảm đương hết mọi việc. Chính tay ngài đan hoặc may cắt quần áo cho vua. Hiểu tính vua, ngài sắm sửa các đồ trang hoàng trong nhà khá lộng lẫy. Điểm chú ý là ở các cửa ra vào trong hoàng cung, ngài đều treo ảnh Thánh Giá bằng vàng hay bằng ngọc. Gắn liền ở dưới những lời than thở rất vắn tắt trích trong Thánh vịnh hay Thánh thư. Phụng dưỡng chồng và chăm sóc giáo dục các con, đó là hai việc thánh nữ lo hoàn tất và thánh hóa hơn cả. Ngài thường nói: "Chắc Chúa sẽ không bằng lòng khi thấy tôi làm những việc khác, đang khi sao nhãng bổn phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình". Ngài sinh hạ được sáu hoàng tử và ba công chúa. Tất cả đều theo gương mẹ sống đời đạo đức tốt lành. Hoàng tử thứ sáu tên là Đavít, sau được dân tôn kính như một vị thánh. Riêng công chúa Edith, lớn lên đẹp duyên với Hoàng đế nước Anh và về sau được phong thánh mang danh hiệu thánh nữ Mathilđa.
Thực ra, để thu lượm những kết quả trên, Hoàng hậu Magarita phải có một đời sống nội tâm phong phú và bác ái dồi dào. Viết về đời sống của ngài, một vị quan trong triều đã ghi như sau: "Mỗi buổi sáng, sau khi đã rửa chân cho sáu người nghèo, dọn bữa cho chín trẻ mồ côi, ngài cùng với mấy nữ tỳ đi thăm viếng, an ủi và ban đồ ăn hay quần áo cho các bệnh nhân và người nghèo. Chính những người nghèo khó bệnh tật cần được nghe lời nói an ủi, họ được nhìn thấy thái độ và nét mặt thông cảm của ngài cũng đủ để tâm hồn hoan lạc. Suốt ngày làm những công việc bác ái như thế, đêm đến ngài lại thức cầu nguyện. Đêm đêm, sau mấy giờ nghỉ ngơi, thánh nữ chỗi dậy đọc các kinh ban mai về lễ Chúa Ba Ngôi, lễ kính Thánh giá, lễ kính Đức Mẹ và kinh cầu cho các linh hồn luyện ngục. Trong mùa vọng và mùa chay, thánh nữ dự mỗi ngày hai ba lễ và rước lễ hằng ngày. Đời sống bác ái và đạo đức ấy đã đáng Chúa thưởng ban cho Hoàng hậu nhiều ơn cao quý đặc biệt như: biết trước việc sắp xảy đến. Ngài báo cho dân chúng biết ngày đau thương xảy đến cho tổ quốc: Quân vương Malcolm III sẽ bị tử trận cùng với Hoàng tử Eđua trong một cuộc viễn chinh.
Chính ngài cũng biết trước ngày qua đời của mình, vì thế, thánh nữ lo dọn mình cách rất sốt sắng, chuẩn bị bước vào cửa trời.
Trong những ngày nằm trên giường bệnh, thánh Magarita chỉ nhận Mình Thánh Chúa làm của ăn và thuốc uống duy nhất.
Ngài luôn tay giữ cây Thánh giá, hôn kính rất âu yếm và thành tín. Khi được tin nhà vua và con trai đầu lòng tử trận, thánh nữ cũng không tỏ vẻ buồn phiền, chỉ coi đó là ý Chúa Quan phòng muốn cho gia đình ngài mau được đoàn tụ trên trời. Với vẻ mặt vui mừng, ngài gượng dậy cùng với gia nhân cất kinh cảm tạ Thiên Chúa. Nhưng vừa đọc hết câu "Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, xin giải thoát con", ngài êm ái lịm đi trong tình yêu vĩnh cửu! Hôm ấy là ngày 16 tháng 11 năm 1093. Nét mặt ngài vẫn tự nhiên xinh đẹp như khi còn sinh thời. Xác thánh nữ được mai táng tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi thuộc tỉnh Dunfermline, bên cạnh mồ vua Malcolm III. Nối liền với hai phần mộ, người ta đặt một tấm bia bằng đá quí có khắc dòng chữ vắn tắt như sau: "Thánh Malcolm Vua và thánh Magarita Hoàng hậu, là cha mẹ dân Scốtlen, là con cái hiếu thảo của Giáo hội Chúa Kitô, và là tấm gương muôn đời cho những kẻ ở bậc đôi bạn".
Lòng tôn kính vua Malcolm III và cách riêng thánh nữ Magarita bắt đầu từ đó. Thánh Magarita được tuyên phong hiển thánh ngày 21.9 năm 1250. Sau nhiều lần thay đổi dưới các triều Giáo Hoàng, lễ kính ngài được Đức Giáo Hoàng Innôcentê XII, năm 1693 định vào ngày 10.6 hằng năm. Đến năm 1673, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đặt thánh nữ làm quan thầy xứ Scốtlen theo như đơn xin của hội đồng Giám mục bản xứ.
Vinh dự thay và cũng nặng nề thay chức phận làm mẹ và làm vợ trong gia đình của người phụ nữ. Chớ gì các bà mẹ, các người làm vợ hãy biết noi gương thánh Magarita để chu toàn và thánh hóa bổn phận cao quí của mình đối với chồng con trong gia đình. Đó chính là sứ mệnh của người phụ nữ, là con đường Chúa muốn các bà bước theo để nên thánh vậy.

* THÁNH GERTRUĐÊ ĐỒNG TRINH"
Cũng như thánh nữ Magarita Maria, thánh nữ Gertruđê là chiến sĩ rao giảng lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh nữ là người thứ nhất được Chúa tỏ Trái Tim cho vì cũng là người thứ nhất cổ động phong trào đền tạ Thánh Tâm Chúa.
Thánh nữ Gertruđê sinh vào một đêm sáng năm 1264, làng Hêlêben thuộc xứ Saxa. Trong miền quê nhỏ bé này, nào có ai biết sẽ có sự gì mới lạ, nhưng mấy chục năm sau khi thánh nữ qua đời, người ta mới nhận ra rằng, đêm hôm ấy là một đêm lịch sử khởi đầu cho một kỷ nguyên truyền bá lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh nữ như đã được Chúa kén chọn để thi hành sứ mệnh đó ngay từ lúc còn thơ bé. Lúc mới lên năm tuổi, Gertruđê đã được cha mẹ gửi vào học tại dòng chị em thánh Biển Đức. Nơi đây, Gertruđê đã làm cho các chị nữ tu phải bỡ ngỡ về trí thông minh và đời sống đạo đức của mình. Gertruđê đã tuân giữ luật dòng một cách hết sức anh hùng, nhất là đức vâng phục. Người ta còn kể lại, một buổi tối kia, trời trở bão, nhà cửa bị gió thổi trốc hết nóc, cột kèo ngả nghiêng như muốn đổ. Để thử đức vâng lời, mẹ bề trên bảo Gertruđê ra ôm một cây cột để giữ cho nhà khỏi đổ. Mặc dầu biết sức mạnh không có ăn nhằm gì với sức gió, nhưng vì vâng lời, Gertruđê cũng ra ôm chặt cây cột. Mãi gần sáng Mẹ bề trên mới sực nhớ rằng mình đã sai Gertruđê đi giữ cột, cho người ra kêu thì thấy Gertruđê rét run cầm cập, hai tay vẫn ôm cây cột.
Sẵn có trí thông minh và nhân đức, bề trên cho phép Gertruđê được học tiếng La tinh và khoa học phần đời. Nhưng vì quá ham mê học hành, nên Gertruđê sút kém đường nhân đức, không còn năng tưởng nhớ tới Chúa như trước nữa.
Trước tình trạng đó, mẹ bề trên cũng không hay biết tâm hồn Gertruđê có gì thay đổi. Vì muốn chọn Gertruđê làm chiến sĩ tiền phong của tình yêu Thánh Tâm, nên Chúa Giêsu đã đích thân hiện đến cảnh cáo thánh nữ. Được Chúa quở trách, thánh nữ buồn phiền đau đớn vô cùng. Ngài xin Mẹ bề trên cho phép nghỉ các môn học khác, để chỉ chú tâm vào khoa học yêu mến Chúa mà thôi. Từ đây Gertruđê ngày đêm nghiền gẫm Kinh Thánh, học thần học và tìm hiểu đường lối tu đức.
Giai đoạn luyện lọc và tẩy rửa đã tạm xong. Khi Gertruđê 20 tuổi, Chúa Giêsu muốn dạy cho thánh nữ những bài học sống động mà không một cuốn sách nào ở trần gian có thể dạy được. Đó là bài học bao la của Trái Tim Chúa đối với loài người, mà loài người lại coi thường lòng thương yêu đó. Có lần thánh nữ đã chết ngất đi hồi lâu vì thấy Chúa cao cả quá, còn mình thì hèn hạ như phân bớn. Từ đấy thánh nữ luôn luôn sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa Giêsu. Từ việc ăn uống, ngủ nghỉ, đến những việc đạo đức hằng ngày, việc gì ngài cũng nhờ Chúa Giêsu đến cộng tác, y như thể Chúa Giêsu cùng ăn uống ngủ nghỉ với ngài vậy. Lúc ấy trong dòng có một nữ tu hết sức đạo đức tên là Mêtinđê đã được chứng kiến những cuộc xuất thần của thánh nữ Gertruđê. Một hôm khi Mêtinđê đang đọc kinh trong nhà thờ thì thấy Chúa Giêsu hiện ra sáng láng uy nghi, Gertruđê quỳ bên cạnh, đôi mắt dính lệ vào ánh hào quang, không động đậy, mắt cũng trở nên sáng láng. Rồi Gertruđê trở nên nhẹ nhàng cất mình lên khỏi mặt đất một lúc lâu. Trong khi đó, Mêtinđê nghe thấy Chúa Giêsu đàm thoại thân mật với Gertruđê: "Đó là cách yêu mến cha tốt nhất, dù ăn uống ngủ nghỉ, hay làm bất cứ một công việc gì, con cũng cứ nhớ đến Cha luôn, làm theo ý Cha và như thế, Cha sẽ làm thay cho con nhiều". Từ đấy, càng ngày, Gertruđê càng coi sự sống của mình thuộc hẳn về Chúa Giêsu, và việc nào làm mà không dâng cho Chúa thì ngài lấy làm đau khổ vô cùng, coi mình như kẻ phản nghịch, như kẻ trộm cướp của Chúa vậy.
Thánh nữ có lòng tôn sùng phép Thánh Thể một cách hết sức nồng nàn. Một nửa ngày ngài làm việc để dọn mình chịu lễ, và một nửa ngày để cám ơn. Người ta còn viết lại rằng: Một hôm, khi sắp lên rước lễ, ngài thấy lòng mình lạnh lẽo khô khan, chưa biết dọn lòng làm sao cho xứng đáng thì ngài buồn rầu phàn nàn quá sức. Nhưng thánh nữ đã khiêm nhường trông cậy vào Chúa và lên chịu lễ như thường. Bỗng nhiên thánh nữ ngất trí và say sưa nhìn Chúa Giêsu đang cho xem những vẻ đẹp đẽ lộng lẫy của một linh hồn chịu lễ sốt sắng. Thánh nữ đã có lần thốt lên: "Ai lên bàn thánh rước Mình Thánh Chúa, mà lại hay nói hành bỏ vạ, không có lòng thống hối, thì cũng chẳng khác chi người tiếp đón một thượng khách mà lại giơ chân đấm đá người khách đó trước khi họ bước chân vào nhà". Vì thế thánh nữ đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và giúp ngài chịu lễ cách sốt sắng thật.
Thuở ấy, Chúa Giêsu chưa có ý định bày tỏ Thánh Tâm Ngài cho nhân loại, nhưng nhiều lần Ngài đã nhắn nhủ Gertruđê hãy năng chạy đến ẩn mình trong Trái Tim Ngài; nhất là khi phải đau phiền. Một hôm bị ma quỷ cám dỗ, thánh nữ đọc kinh chia trí nhiều quá, ngài buồn rầu thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, con làm việc như vậy nào được ích gì? Xin Chúa nâng đỡ con". Bỗng nhiên Chúa Giêsu tỏ Thánh Tâm cho thánh nữ và nhắn nhủ: "Đây là Thánh Tâm Cha, các việc con làm, con hãy làm vì Thánh Tâm Cha, như thế, những việc lành thánh sẽ được Máu Cực Thánh Trái Tim Cha rửa cho sạch". Thế là Gertruđê đã trở nên một chiến sĩ nhiệt thành cổ động cho lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu mà mãi bốn thế kỷ sau thánh nữ Magarita Maria mới truyền bá cho cả loài người. Sách chép hạnh thánh nữ kể lại rằng: Có lần Chúa Giêsu đã đổi Thánh Tâm Ngài cho thánh nữ và nhận lấy trái tim của thánh nữ để ngài được yêu mến và nhận biết lòng Chúa hơn. Lần khác, Chúa lại hiện ra và nói với thánh nữ Mêtinđê: "Không có nơi nào Cha thích ngự xuống bằng lòng thánh nữ Gertruđê". Được nhìn thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu, thánh Gertruđê thường run sợ vì loài người yêu Chúa quá ít. Vì thế, một hôm ngài nức nở than khóc: "Lạy Chúa, con biết làm gì để đáp lại lòng Chúa yêu con? Con bội bạc cùng Chúa quá nhiều, xin Chúa dạy con". Lập tức thánh nữ được Chúa dạy bảo: "Hãy bỏ ý riêng mình và theo ý bề trên, đó là yên ủi Cha, Đấng đã bị quân dữ bắt sỉ nhục, hãy cáo tội lỗi mình với những người đại diện Cha, như thế con sẽ xoa dịu được những vết thương Cha đã chịu. Hãy thống hối, ăn năn cầu nguyện cho kẻ có tội và yêu mến Thánh Tâm Cha nhiều hơn, như thế con sẽ làm nhẹ bớt được phần nào gian khổ Cha đã chịu trong giờ hấp hối". Những lời căn dặn ấy, Chúa đã truyền cho thánh nữ ghi chép lại để răn dạy cho loài người.
Người chiến sĩ của Thánh Tâm Chúa Giêsu đã đền đáp được phần nào tình thương hải hà của Chúa đối với nhân loại bằng cách yêu, yêu thật nhiều và làm cho nhiều người yêu mến phạt tạ Thánh Tâm. Ngày 15 tháng 11 năm 1307, thánh nữ đã vĩnh biệt cõi trần, về ẩn mình trong Thánh Tâm Chúa Giêsu muôn đời…

 

Posted By Đỗ Lộc Sơn15:18

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Thánh Lễ mừng Thánh Quan Thầy Tôma Thiện.

Filled under:


1) Nhập đề: Máu tử đạo, hạt giống trổ sinh Giáo hội.

Chúng ta, trước hết, nên biết cuộc bách đạo tại Việt Nam ḿnh dai dẵng và dữ dội. Khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802, bấy giờ bắt đầu được khá tự do và Giáo hội phát triển. Tiếp đến thời Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, cuộc bách đạo lại khốc liệt và quy mô hơn.

Thánh Tôma Thiện của chúng ta tử đạo vào năm 1838 dưới thời vua Minh Mạng. Các Bài Đọc hôm nay nói về chuyện gieo xuống đất xác phàm, sống lại vinh quang; hay theo bài Phúc âm, hạt giống gieo xuống, theo gương Chúa Giêsu Kitô, bị vùi dập, hầu như chết, thế mà đă bừng sống dậy. Chú Tôma Thiện cũng là hạt giống, như chúng ta hay nghe nói hạt giống Tử đạo nẩy mầm sinh đức Tin, sinh Giáo hội. Ngài tử đạo vào năm 1838. Sau đó, qua mầu nhiệm Các Thánh Thông Công, rất nhiều người nhận được niềm Tin. Không ngờ đúng một trăm năm sau, vào năm 1938, năm sinh của tôi, th́ có Gioan Nguyễn Lợi nhận được đức Tin. (Cộng doàn phụng vụ cười và vỗ tay.)

Chủng viện Huế của chúng ta nhiều lần thay đổi tên: được thành lập với tên tiểu chủng viện An Ninh, sau đó phải dời chổ, dời đi dời lại; rồi, có khi được thay thế bằng chủng viện Di Loan. Chúng ta nhớ mấy chi tiết này để dễ dàng hiểu những ngày cuối cùng của thánh Bổn Mạng chúng ta.


2) Theo gương Thánh Tôma Thiện, luôn t́m thực thi thánh ư Thiên Chúa. Tiếng nói lương tâm.

Chú Tôma Thiện có hai bà chị, trong ấy có một bà đi theo ngài. Sử ghi như thế này: khi chị Yến cho biết t́nh h́nh bắt đạo ở Di Loan, tiểu chủng viện Di Loan bấy giờ bị giải tán, và cha bề trên cũng phải lẩn trốn, chú Thiện nói với chị: "Dù không gặp ngài (tức là cha bề trên của chủng viện Di Loan), em cũng phải tới nơi: cha gọi em, em không thể không đi được." 

Chú Thiện này khá lắm! Mới 18 tuổi thôi mà đă quyết tâm thực hiện ư Chúa, t́m thánh ư Thiên Chúa. Và đó là mẫu gương cho chủng sinh, đại chủng sinh, cũng như chocác linh mục, là những người, khi nhận chức thánh, hứa sẽ vâng lời giám mục, tại v́ ư của giám mục là ư của Thiên Chúa trong hành động mục vụ. Dĩ nhiên, chúng ta xin với Thánh Tôma Thiện chuyển cầu cho chúng ta, là linh mục ở nước nhà, đặc biệt cho các linh mục tại Huế, biết tuân phục hai Đức Tổng của chúng ta, Đức Tổng Têphanô và Đức Tổng Phanxicô, theo gương Thánh Tôma Thiện. Dĩ nhiên, trong sự tùng phục có đối thoại; nhưng sau đối thoại, quyền quyết định tối thượng là của giám mục. Chúng ta xin Thánh nhân phù hộ cho tất cả các linh mục thấm nhuần tinh thần ấy. 

Riêng cựu chủng sinh th́ sao? Cũng giống như tất cả các giáo dân, chúng ta luôn t́m thánh ư Thiên Chúa qua tiếng nói của lương tâm mà đă được Chúa Thánh Thần hoán cải, được Chúa Thánh Thần tu bổ bằng đức Tin, đức Cậy, đức Mến, với Bảy Ơn, và với những ơn soi sáng, thúc giục mỗi giây mỗi phút, để giúp chúng ta t́m được và thực thi thánh ư Thiên Chúa trong môi trường chúng ta đang sống: trong gia đ́nh, trong xă hội, và đặc biệt trong cộng đồng giáo xứ, để rồi chúng ta biết hợp tác với nhau mưu t́m vinh danh Thiên Chúa.

Vậy, c̣n những người chưa có niềm Tin, th́ sao? Chúng ta xin cho tất cả t́m thánh ư Thiên Chúa qua tiếng nói lương tâm. Và đây là một chân lư rất quan trọng, mà nhân ngày tưởng nhớ thánh Bổn Mạng Tôma Thiện, chúng ta ư thức Giáo hội hiện giờ nhấn mạnh giá trị căn bản của tiếng nói lương tâm. Đức Thánh Cha tông du qua Anh quốc để phong Chân Phước cho Hồng Y John Henry Newman. Một trong những điểm son của Hồng y Newman, từ Anh giáo trở về Công giáo, được diễn tả trong câu nói bất hủ. Hồng Y nói như thế này: Nếu tôi cần phải nâng ly rượu mừng th́ tôi xin nâng ly rượu mừng đầu tiên cho lương tâm của con người, rồi ly rượu mừng thứ hai cho Đức Thánh Cha; nghĩa là, lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa và là căn bản, mà trên đó mầu nhiệm Mạc khải đến để vun tưới, vun tưới bằng Thánh Thần, để rồi tươi sáng hơn. Những người chưa nhận được Thánh Thần v́ lư do này lư do khác th́ vẫn phải theo tiếng nói lương tâm. Có thế, trong những tranh luận thần học, chúng ta khỏi phải quá bồn chồn lo lắng về số phận được cứu rỗi hay không cứu rỗi của những người chưa nhận được niềm Tin. Tôi không thể dài ḍng trong điểm này được, nhưng chúng ta thấy Thánh Tôma Thiện, nhân ngày hôm nay, gợi mở cho chúng ta một con đường: con đường cứu độ cho tất cả mọi người qua sự cố gắng t́m thực thi thánh ư của Thiên Chúa; và đối với những ai chưa có niềm Tin, đó là hành động theo tiếng nói lương tâm.

3) Nước Trời hay Luật Trời.

Điểm thứ hai. Khi nói về ư Trời, chúng ta không thể quên: một trong những chân lư chính yếu của Chúa Giêsu khi rao giảng, là Nước Trời. Nước Trời theo nghĩa nào? Lịch sử chú giải Kinh Thánh ba ch́m bảy nổi trong việc t́m hiểu ư nghĩa của Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Nhưng rồi, với thành quả chú giải được cô đọng trong cuốn Jesus of Nazaret (Đức Giêsu làng Nadarét), tập một, của Đức Thánh Cha, chúng ta phát hiện được rơ ràng: không phải, trong chú giải Kinh Thánh, hiểu được ngôn ngữ Do Thái (Hi-pri) hay ngôn ngữ Hy Lạp, là có thể hiểu được ư nghĩa của Nước Trời. Trong trường hợp này, phải đi vào trong tiếng Aramaic, là ngôn ngữ Chúa Giêsu đă dùng khi rao giảng. Thành quả ấy được diễn tả trong cuốn sách của Đức Thánh Cha: Nước Trời là nơi t́m được thánh ư của Thiên Chúa, tại v́ Nước Trời, theo tinh thần của tiếng Aramaic, là Luật của Thiên Chúa. Có nhiều khi, nỗ lực chú giải đi lung tung lang tang mà quên đi chính Chúa Giêsu đă cho chú giải về Nước Trời rồi, cho ngay trong kinh Lạy Cha: Nước Cha trị đến, Ưù Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Nước Trời là cộng đoàn phụng vụ của chúng ta hôm nay đang tề tựu đây, trong ngày tưởng nhớ Thánh Tôma Thiện và đang t́m hiểu ư nghĩa của thánh ư Thiên Chúa như thế nào trong môi trường, theo gương của Thánh Tôma Thiện; nghĩa là, chúng ta thực sự là Nước Trời đang triển nở trong Phụng vụ.

4) Neo Giêsu Thánh Thể và Thánh Tôma Thiện, mẫu gương Tin Yêu và Hy vọng.

Bấy giờ, lính bắt một số giáo hữu, trong đó có hai chị em Tôma Thiện cũng vừa mới tới Di-Loan. Tất cả bị giải về Quảng Trị và bị tra tấn. "Hăy bỏ đạo th́ sẽ được tha!" Chú Thiện trả lời: "Đạo dạy tôi thờ kính Thiên Chúa là đạo thật, tôi không thể bỏ được." Trong khi hỏi cung, thấy Tôma Thiện khôi ngô tuấn tú, đối đáp nhanh nhẹn, có vẻ con nhà nho, quan nghi ngờ chú là đồ đệ của đạo trưởng (là cố Jaccard Phan) nên giữ lại lâu để vặn hỏi cặn kẽ hơn. Chú khai ḿnh vừa mới từ Quảng trị đến, chưa hề gặp cố Kim là bề trên chủng viện Di-Loan, và hiên ngang xưng ḿnh là người có đạo, không chút sợ hăi. Chú c̣n xác quyết một ḷng thờ phượng Thiên Chúa, là Đấng tạo thành trời đất; thà chết chẳng thà bỏ đạo.

Thánh Quan Thầy của chúng ta cương quyết xác nhận ḿnh thờ Thiên Chúa tạo thành trời đất. Và, nếu cần phải chết v́ niềm Tin này, v́ niềm Hy vọng này, chú Thiện vẫn sẵn sàng.
Chúng ta liên tưởng đến một trong những thành quả của cuộc tử đạo Tôma Thiện, là cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận. Chúng ta được một linh mục của chúng ta ngày mai sẽ nói nhiều về ngài như là chứng nhân của niềm Hy vọng. Vậy, tôi xin chuyển qua một vị tử đạo khác của chúng ta, cũng được Đưc Thánh Cha kính yêu trích dẫn những lời của ngài trong thông điệp Được cứu độ nhờ niềm Hy vọng. Đó là Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh. Ở trong tù, ngài đă viết một đoạn mà được trích dẫn trong Thông điệp. Ngài lấy ư từ Thư gởi cho Tín hữu Do Thái: Đang lênh đênh ở gịng đời này, chúng ta có được cái neo quẳng lên trời, tận măi Cung Thánh. Neo ấy là Đức Giêsu Kitô đang ở trong Cung Thánh của Đền Thánh trên Trời. Neo ấy rất vững vàng. Thuyền của chúng ta, thuyền cá nhân, thuyền cộng đoàn, thuyền gia đ́nh, thuyền Giáo hội hoàn vũ hay Giáo hội Việt Nam, đang được buộc vào Neo ấy. Cho nên, chúng ta rất an tâm giữa biển đời. Bổn phận của chúng ta khi gặp chao đao ở dương thế, là noi gương Thánh Tôma Thiện: luôn luôn hướng về Thiên Chúa, hướng về Trời. Người kitô hữu có thể được định nghĩa như là người chân đạp đất mà đầu không phải đội Trời; không, kitô hữu là người chân đạp đất, hai mắt nh́n Trời để biết hướng đi. Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta gặp Neo Giêsu, và nhấp nhấp thử dây neo để xác tín Neo vẫn c̣n đó và luôn vững chắc. V́ thế, sau mỗi Thánh Lễ, chúng ta về lại môi trường với tâm tư đă đuợc một chuyên viên về Thánh lễ nói lên. Không một Thánh Lễ nào mà lại không nhắc nhở chúng ta: sau Thánh Lễ, chúng ta được gia tăng Hy vọng thêm một chút. Chúng ta thấy chúng ta tội lỗi nhưng khi tới dự Thánh Lễ, nhấp nhấp thấy Neo Giêsu vẫn c̣n vững và chúng ḿnh vẫn nắm vững dây neo, th́ bấy giờ chúng ta, về lại trong cuộc sống, an tâm hơn. Lư do, là v́ Neo Giêsu này, tuy đặt măi trên Cung Thánh Nước Trời, nhưng đồng thời cũng là Neo di động, v́ Neo này c̣n mang tên Emmanuel, đồng hành với chúng ta.

5) Diện đối diện cùng nh́n về Trời.

Để vắn gọn hơn, tôi nhảy đấy! Xin sang trang cuối v́ thấy các cha ngam ngáp rồi đó...(Cộng doàn phụng vụ cười).
Khi ôn lại cuộc Tử đạo, không ngờ mấy chi tiết dưới đây giúp tôi rất nhiều và chắc cũng sẽ giúp Anh Chị Em.
Sáng hôm sau, ngày 18 tháng 7, 1838, lính đưa vào nhà lao một người tù mới: Cha Jaccard (cố Phan). Chú Tôma Thiện hết ḷng tạ ơn Thiên Chúa đă ban cho ḿnh có một vị linh mục bên cạnh để chia vui sẻ buồn và giúp Chú thêm Tin Yêu để can đảm đón nhận cuộc tử h́nh đang chờ đợi. Không ngờ, cố Phan lại chính là bề trên của chủng viện An Ninh. Ngài được vào tù ở chung với chú Tôma Thiện. Bấy giờ, cố Phan huấn luyện chú Tôma Thiện trên con đường trở thành linh mục ngay trong lao tù. V́ thế, chúng ta thường nói: Thánh Tôma Thiện là chủng sinh của chủng viện An Ninh, v́ đă được chính cha bề trên đào tạo trong tù.

Theo thỉnh cầu của cha Jaccard, lính cho ngài và chú Tôma Thiện cùng qùy mặt đối mặt. Hai giây tḥng lọng tṛng vào cổ hai cha con. Hồi chiêng trống vừa dứt, chú Tôma Thiện ngước mắt trông lên trời. Quân lính nắm hai đầu dây kéo lại thật mạnh; chú Tôma Thiện gục đầu tắt thở. Sau khi chứng kiến cuộc tử đạo anh dũng của chủng sinh ḿnh, linh mục Phan cũng hiên ngang đưa cổ ra chịu tử đạo.

Linh mục Phan xin lính cho ngài và chú Tôma Thiện diện đối diện nhưng mà cùng nh́n về trời. Anh Chị Em ở dưới này coi là chú Tôma Thiện đi nha! Trên này đức ông và các cha, cùng với thầy Sáu, là linh mục Phan: diện đối diện cùng nh́n về Trời! Chúng ta diện đối diện nhưng cùng nh́n về Bàn Thờ, hay đúng hơn nữa, cùng nh́n về Thập giá. V́ sao? Thời trước, theo kiến trúc thánh đường và theo nghi thức Phụng vụ, các linh mục làm Lễ, xin lỗi, hay nói là, quay lưng về phía Anh Chị Em, phải không? Ḿnh nói tuyệt hơn nữa là: cộng đoàn phụng vụ và linh mục chủ tế cùng nh́n về phía này, phía có Thánh giá: đó là hướng Đông! Tất cả cộng đoàn phụng vụ cùng với linh mục chủ tế nh́n về hướng Đông, là Đức Giêsu Kitô, v́ theo Malaki, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước (tiếp sau đó là 400 năm Thinh Lặng của Cựu ước, 400 năm không ngôn sứ), theo Malaki th́ Thiên Sai là Mặt Trời Công Chính. Với Vatican II bấy giờ, đức ông Hàm (Nguyễn Ngọc) và các linh mục đồng tế đây, cùng với thầy Sáu, ở trên này, với Anh Chị Em dưới này: chúng ḿnh như cha Jaccard và chú Tôma Thiên diện đối diện nhưng mà cùng nhau nh́n về Mặt Trời, nh́n về Thánh giá. Cây Thánh giá ở nơi đây v́ hơi thiếu chỗ, đáng lư phải được đặt kế cận Bàn Thờ để cho linh mục chủ tế và cộng đoàn cùng nh́n về Thánh giá, là Chúa Giêsu Kitô, là Phương Đông của chúng ta, là Mặt Trời Công Chính. Anh Chị Em thấy đẹp không? 

Chúng ta, sau Đại hội này, chỉ cần nhớ linh mục Phan và chú Tôma Thiện diện đối diện và cùng nhau hướng về Trời. Mà theo Phụng vụ, chúng ta nói: cùng nhau hướng về Mặt Trời Công Chính ở Phương Đông. Mà Mặt Trời Công Chính này, theo ngôn sứ Malaki nói tiếp, là Mặt Trời có những tia sáng chữa lành bệnh. À! Không phải lá dứa hay dầu dừa chữa bệnh tiểu đường, mà đây là những tia sáng chữa lành bệnh qua tác động của Chúa Thánh Thần. V́ thế, chúng ta cầu nguyện sao? Lạy Chúa, mỗi lần chúng con tới cùng linh mục chủ tế hướng về Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu Kitô, xin cho chúng con nhận được Thánh Thần của Ngài, để rồi chúng con ra về khỏe mạnh hơn, để rồi chúng con cảm thấy được lành nhiều thứ bệnh. Mỗi lần đến tham dự Thánh Lễ, với Lời Chúa, với những tư thế (đứng, qú, ngồi...) hay những dấu chỉ trong Phụng vụ (như bánh rượu...), chúng con được nhắc nhở, và tôi xin trưng câu nói của một nhà nghiên cứu về Thánh Lễ, bằng tiếng Anh v́ bấy giờ chúng ta sẽ dễ hiểu hơn (cău tiếng Anh vắn gọn lắm): Khi chúng ta tới Thánh lễ, bấy giờ chúng ta được Thiên Chúa giúp ư thức Ngài tốt lành như thế nào, How good God is, chứ không phải để ư thức How bad we are. Tới tham dự Thánh lễ, chúng ta được nung nấu niềm Tin và niềm Hy vọng, bởi v́ chúng ta, tuy là tội nhân, nhưng cũng muốn cải thiện; tội nhân có thiện chí cải thiện nhưng vẫn c̣n yếu đuối. Mặc dù vậy, cứ tới gặp Chúa Giêsu Kitô đi! Như Đức Thánh Cha vừa nhắc nhở: chúng ta là tội nhân nhưng là tội nhân được yêu thương. Mà phải nói: được yêu thương nhiều hơn, tại v́, như con cái trong nhà ḿnh, đứa nào bị bịnh th́ cha mẹ yêu thương hơn. Cho nên, khi chúng ta tới đây với ư thức chúng ta là tội nhân, th́ phải xác tín Thiên Chúa đang xích lại gần để chăm sóc chúng ta hơn, chu đáo hơn.

Điểm thứ hai. Xin Chúa chữa chúng ta được lành căn bệnh đi lung tung lang tang trong cuộc đời. Xin cho chúng biết nhấp lại dây Neo Bí tích Thánh Thể, cho chúng con mỗi lần tham dự Thánh Lễ, chúng con thấy vững Neo. Bấy giờ, trở về cuộc sống của ngày, của tuần, của tháng, luôn tin tưởng Chúa Giêsu Neo Thánh Thể của chúng ta, Emmanuel của chúng ta, đang đồng hành với chúng ta trong mọi sinh hoạt.

6) Cuộc Tử đạo của Thánh Tôma Thiện và việc tham dự Thánh Lễ bằng chính cuộc sống.

Và lạy Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh chủng sinh Tôma Thiện, xin cho chúng con luôn ư thức cuộc tử đạo của ngài là tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu Kitô, mà bằng chính cuộc đời chủng sinh của ngài, chứ không phải như chúng ta đến đây nhiều khi đóng góp 5 đồng, 10 đồng, giống như đại diện của chúng ta, nhưng tâm hồn của chúng ta không theo Chúa trong Thánh lễ và sau Thánh lễ, không quyết tâm sống lời của Ngài. Đó chính là ư nghĩa của Bài Đọc thứ nhất mà anh Đồng (Lê Công) tuyên đọc đấy! Ngôn sứ Isaia bảo: Trong tương lai, từ muôn phương, dân Do Thái sẽ hồi hương. Từ muôn phương là từ đâu? Từ những nơi bị lưu đày. Nhất là miền Nam bị lưu đày qua ở Babylon 70 năm; trong hoàn cảnh ấy, mới được các ngôn sứ dạy dỗ, giúp nhớ lại Đền Thánh Giêrusalem với không biết bao nhiêu nghi lễ rất là hoành tráng, thế mà Thiên Chúa, qua miệng các ngôn sứ, phán bảo: Thiên Chúa nhờm tởm những nghi lễ ấy! V́ sao? Kinh thánh ghi rơ ràng: có nhiều người đem con dê hay là con chiên tới, mà dê ấy, chiên ấy, là dê chiên bị bịnh, ăn không được mới đem dâng cho Thiên Chúa; con dê bị què dâng cho Thiên Chúa. Như vậy, làm sao có cả cuộc đời ḿnh dính liền vào hy lễ t́nh yêu ấy được. Cho nên các ngôn sứ bảo: Thiên Chúa nhờm tởm các hy lễ ấy! V́ sao? Tại v́ tất cả các hy lễ ấy là hy lễ mà, theo kiểu nói của Đức Thánh Cha của chúng ta trong các sách về Phụng vụ của ngài, là hy lễ thay thế (Replacement Sacrifice, Sacrifice de remplacement). Chúng ta thấy Abraham tế lễ: tế lễ con ḿnh, chứ đâu phải tế lễ chính ông, cho dù ḷng người cha cũng quặn đau. Rồi tới Isaac tế lễ nhưng được thay thế bằng con dê đực bị vướng trong cây; rồi sau này, dân Do Thái cũng thế. Khi mạc khải như vậy, Thiên Chúa cũng báo trước Chúa Giêsu Kitô, sau này, cũng sẽ chết thế cho chúng ta. Đúng! Nhưng lưu ư: Chúa Giêsu chết thế cho chúng ta nhưng đồng thời cũng lôi kéo chúng ta vào với Ngài để cùng chết với Ngài, cùng dâng Lễ với Ngài. V́ thế Ngài mới nói: Một khi được treo lên cao, Ta sẽ lôi kéo mọi người về Ta! V́ thế, trong các Kinh Nguyện Thánh Thể được bổ túc sau Vatican II nhờ những đóng góp của Giáo hội Chính Thống, vai tṛ tối ư cần thiết của Chúa Thánh Thần mới được diễn tả trong Kinh Nguyện Thánh Thể rất rơ ràng, với ba nhấn mạnh...

Thứ nhứt: Xin Chúa Thánh Thần xuống thánh hoá, liên kết bánh và rượu này với Ḿnh Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô để trở thành chính Ḿnh Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta gọi là kinh Xin Ban Chúa Thánh Thần (Epiclesis) và Truyền phép.

Rồi sau đó, sau khi đă có Chúa Giêsu Kitô hiện diện trên Bàn Thờ, xin Thánh Thần tiếp tục lôi kéo chúng ta đến với Đức Giêsu Kitô để hợp nhất trong Ngài, trở thành Giáo hội, là chính Thân thể của Ngài: không c̣n có cái chuyện chỉ thay thế mà thôi!

Rồi tới phần thứ ba của vai tṛ Chúa Thánh Thần trong Kinh Nguyện Thánh Thể: bấy giờ, lạy Chúa Thánh Thần, xin đẩy chúng con thêm nữa để chúng con nên giống Chúa Giêsu Kitô hơn, để trong Ngài và với Ngài, chúng con trở thành hy lễ dâng lên đẹp ḷng Thiên Chúa Cha trong toàn thể cuộc sống kitô hữu.


Kết: Nguyện xin được sống tinh thần Tôma Thiện.

Lạy Chúa, mỗi lần tham dự Thánh lễ, nhất là khi tưởng nhớ tới Thánh Tôma Thiện, xin cho chúng con biết đem cuộc đời ḿnh vào kết hiệp với cuộc đời Chúa Giêsu Kitô. Và v́ thế, sau Thánh lễ, chúng con thấy điều quan trọng nhất, là chúng con cảm nhận được chữa lành bệnh do tác động của Chúa Thánh Thần, như chúng ta vừa suy gẫm. Lạy Đấng Neo Emmanuel đă ở với chú Tôma Thiện trong cuộc tử đạo, xin ở với chúng con luôn măi để chúng con luôn có tinh thần Tôma Thiện trong cuộc sống mỗi ngày.
(Linh mục Gioan Nguyễn Lợi, 18 tháng 9, 2010)

Posted By Đỗ Lộc Sơn15:24

Lời sống hôm nay 15/11/2014

Filled under:

15/11/14 THỨ BẢY TUẦN 32 TN
Th. An-be-tô Cả, giám mục, tiến sĩ HT Lc 18,1-8
CẦU NGUYỆN VỚI LÒNG CẬY TRÔNG
“Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?” (Lc 18,7) 
Suy niệm: Con người thời nay, trong đó có không ít các ki-tô hữu, ngày càng ưa chạy theo lối sống thực dụng. Họ thích những bàn tay làm ra nhiều của cải vật chất hơn là đôi tay chắp lại cầu nguyện; mà nếu có cầu nguyện thì mang tâm trạng “ăn xổi ở thì” muốn “cầu được ước thấy” ngay trước mắt. Với não trạng thực dụng này, người ta dễ chán nản, buông xuôi vì nghĩ rằng Thiên Chúa chậm trễ hoặc không đáp lại lời họ kêu xin. Chúa Giêsu dạy chúng ta biết kiên trì trong lời cầu nguyện. Với niềm tin vững vàng và lòng cậy trông tha thiết vào Thiên Chúa là Cha nhân ái, chắc chắn, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được Ngài đoái nhận lời. Ngài sẽ ban cho chúng ta điều tốt đẹp nhất không phải theo tầm nhìn hạn hẹp của chúng ta, mà là theo sự khôn ngoan vô lượng và lòng nhân hậu vô biên của Ngài.
Mời Bạn: Tin tưởng vào tình thương yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta phải biết kiên trì và trung thành trong lời cầu nguyện và việc thờ phượng của mình. Không phải cầu nguyện chỉ để xin được điều này điều khác như ý muốn, nhưng đó là biểu hiện của sự tin tưởng vào tình yêu thương và sự quan phòng của Cha trên trời.
Sống Lời Chúa: Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện bằng cách đọc kinh Lạy Cha. Mỗi khi cầu nguyện, bạn đọc kinh Lạy Cha. Mỗi khi muốn xin Chúa điều gì, bạn hãy xem xét điều mình xin có phù hợp với những gì Chúa dạy cầu nguyện theo kinh Lạy Cha hay không.
Cầu nguyện: đọc kinh Trông Cậy.



Ngày 15 tháng 11
THÁNH ALBERTÔ CẢ
GIÁM MỤC TIẾN SĨ
Đang khi Giáo hội phải đương đầu với những lý thuyết sai lầm, thì thánh Albertô đã xuất hiện như linh hồn của phong trào cải cách triết học và thần học công giáo. Thật vậy, thánh Albertô là một học giả uyên bác đã suốt đời dùng tài đức của mình để tô điểm cho học thuyết của Giáo hội thêm đẹp đẽ lộng lẫy…
Người ta biết rất ít về những quãng đời thơ ấu của thánh nhân, thậm chí đến ngày sinh cũng không được xác định rõ ràng. Chỉ biết thánh nhân sinh ra tại Laningen, thuộc địa phận Augsbourg, trong xứ Bavière quãng năm 1206. Thân phụ là công chức cao cấp trong hoàng triều. Vì thế Albertô có thừa phương tiện để trở thành một anh tài lỗi lạc. Thiên tài của thánh Albertô đã xuất hiện ngay từ những ngày còn nhỏ. Sống giữa cảnh cỏ cây mây nước hay bất cứ hiện tượng thiên nhiên nào, thánh nhân cũng tìm thấy ở đấy một ý nghĩa cao cả. Thánh nhân coi vũ trụ thiên nhiên như một quyển sách khổng lồ ca tụng vinh quang và quyền phép Thiên Chúa. Vì thế thánh nhân thường lắng nghe thiên nhiên để học biết và yêu mến Người nhiều hơn.
Lớn lên, Albertô được một người cậu đưa sang Bôlônia theo học. Ở đây có lẽ thánh nhân đã cảm phục tài đức của chân phước Giorđanô de Saxe, lúc ấy đang làm giảng sư tại đại học đường Bôlônia. Chân phước Giorđanô tìm hết cách thuyết phục Albertô nhập dòng thánh Đaminh. Năm 1223, Albertô di chuyển sang Pađôva với một vài sinh viên khác.
Cha Giorđanô cũng đi theo và tháng 7 năm 1223, ngài đã chinh phục được Albertô nhập dòng.
Bẵng đi một thời gian khá dài trong dòng Đaminh để trau dồi kiến thức sửa soạn cho một sự nghiệp vĩ đại sau này. Ngày đêm thánh Albertô chuyên chú vào việc học biết yêu mến và làm nhiều người yêu mến Chúa Kitô. Lòng nhiệt thành lúc nào cũng như trào lên một tình mến dạt dào: "Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin lắng nhe tiếng khóc than, trong bãi sa mạc đau thương con kêu xin Chúa, xin Chúa cho con khỏi bị những cám dỗ huyền hoặc về những vinh hoa phú quý của gia đình và những lôi cuốn của khoa học". Thánh nhân luôn lo mình không làm tôi Chúa cho đủ, sợ không trung thành đến cùng. Vì thế trong các bài giảng, ngài thường nói với Chúa hay với Đức Mẹ bằng một tâm tình đầy trìu mến.
Những dòng sau đây là một trong rất nhiều bằng chứng chúng ta có thể nêu lên. Lần giảng về Đức Mẹ nhân lành, thánh nhân kết thúc: "Bao giờ chúng con mới thấy gương mặt hiền từ mà chúng con ao ước bấy lâu nay? Bao giờ chúng con mới được ở gần Mẹ, một người Mẹ mà chúng con nhiều lần bất hiếu? Bao giờ chúng con mới được thấy Mẹ! Chúng con lo sợ không biết có đủ kiên nhẫn mà đợi chờ. Và ước chi trong khi chờ đợi ngày đêm, chúng con biết khóc than tội lỗi chúng con, cho tới khi nào chúng con được nghe tiếng êm ái dịu dàng của Chúa: "Hỡi con, đây là Mẹ con".
Thời kỳ chuẩn bị đã xong, năm 1228, sau khi chịu chức linh mục, thánh Albertô được cử làm giáo sư đại học đường Cologne. Đây là cơ hội thuận tiện để thánh nhân đón nhận và rửa tội cho những triết thuyết sai lầm của ngoại giáo và mặc cho chúng một bộ áo Kitô giáo. Tiếp đó ngài lần lượt dạy học ở Fribourg, Ratisbona và Strasbourg. Qua năm 1245, cha Albertô lại được cử giữ chức giảng sư tại đại học đường Paris. Các môn sinh của ngài có nhiều người rất xuất sắc. Trong đó thánh Tôma Aquinô là một nhân tài lỗi lạc mà thánh nhân đã nhận thấy ngay từ lúc Tôma mới bắt đầu thụ giáo. Lần đầu tiên khi Tôma đến trường để nghe cha Albertô dạy học, chúng bạn thấy Tôma lầm lì ít nói thì cho ngài là bò câm. Nhưng thánh Albertô nhận thấy nơi Tôma có một sứ mệnh cao cả, ngài đã quay xuống nói với các sinh viên: "Phải, các bạn gọi Tôma là bò câm, nhưng con bò câm này sẽ rống vang khắp thiên hạ". Quả như lời thánh Albertô tiên đoán, thánh Tôma đã trở thành tiến sĩ của Giáo hội, một trong những học giả uyên thâm nhất của nhân loại.
Ở Paris, thánh Albertô thu hút được nhiều sinh viên đến nỗi có lần ngài phải đứng ngoài phố mà dạy vì trong trường không đủ chỗ dung nạp sinh viên. Tiếp xúc với ngài, sinh viên thích thú không phải chỉ vì được hấp thụ những tư tưởng cao siêu, mà còn vì nơi ngài chiếu sáng nhiều nhân đức, nhất là tình thương của một người cha nhân hậu. Ngài sống với sinh viên bằng tình cha con, thầy trò, và bằng hữu chí thân. Thánh Albertô cũng là trung gian uy tín dàn xếp những xích mích giữa chính quyền và giáo quyền.
Năm 1254, thánh Albertô được cử giữ chức bề trên phụ tỉnh Đaminh tại Teutonica. Trong nhiệm vụ mới, ngài cố gắng canh tân lại một ít tập tục đã bị đời sống vật chất làm suy giảm. Ngài cũng đứng ra dàn xếp cuộc tranh luận giữa các linh mục triều và các cha dòng về vấn đề cạnh tranh ghế giáo sư nơi đại học.
Khi mãn nhiệm kỳ bề trên, thánh Albertô được Đức Giáo Hoàng chọn làm Giám mục địa phận Ratibona. Bản tính thích thầm lặng trong chiêm niệm và nghiên cứu thần học, nên khi nghe tin được bổ làm Giám mục, ngài hết sức buồn rầu.
Nhưng vì tinh thần vâng phục và yêu mến các linh hồn, năm 1260, thánh nhân lĩnh nhận chức Giám mục. Vừa về địa phận, thánh Albertô đã gặp phải nhiều khó khăn. Trước hết ngài phải trang trải công nợ do các Giám mục trước còn để lại. Thứ đến thánh nhân phải đau khổ khi nhìn thấy giáo dân sống xa hoa trái đức công bằng bác ái. Nhân tâm bạc bẽo, ngày về nhận địa phận, Đức Giám mục không được mấy người tiếp đón và thực lòng cộng tác, chỉ vì ngài không thể chiều theo nếp sống xa hoa của họ. Tuy nhiên, chỉ trong vòng mấy năm, thánh Albertô đã biến đổi được bộ mặt sống của địa phận: Ngài thiết lập và trùng tu nhiều nhà dòng, nhiều cơ sở từ thiện và giáo dục, tổ chức nhiều phong trào và đoàn thể mộ đạo, ngài tận tụy làm việc cho địa phận, tới khi cảm thấy tuổi già sức yếu ngài mới tìm người kế vị và sang Rôma xin Đức Giáo Hoàng cho từ chức để trở về nhà dòng. Hiểu hoàn cảnh và nỗi lòng của người con thân yêu, Đức Giáo Hoàng Ubanô IV đã cho ngài được như ý nguyện.
Nhưng năm 1263, Đức Thánh Cha lại yêu cầu thánh Albertô đi chiêu mộ nghĩa quân thánh giá trong những miền nói tiếng Đức. Công việc không kết quả bao nhiêu, mặc dầu Đức Giáo Hoàng đã ban nhiều sắc chỉ kêu gọi nhân tâm. Sau đó thánh Albertô lại tiếp tục công việc sách vở. Thánh nhân chỉ nghỉ làm việc trước khi chết mấy ngày. Cuối đời, ngài còn viết bộ Tổng luận thần học để bênh vực một số tư tưởng của thánh Tôma đang bị chỉ trích. Thế rồi một hôm đang đứng giảng trước công chúng, tự nhiên thánh nhân mất hết trí nhớ, và ngã bệnh nặng cho tới ngày 15 tháng 11 năm 1280 thì qua đời êm ái, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã phong thánh và đặt thánh Albertô làm tiến sĩ Giáo hội năm 1931.

Posted By Đỗ Lộc Sơn12:33

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN Suy niệm Tin Mừng Mt 25:14-30

Filled under:

 Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người chúng ta phải giáp mặt với ‘Con Người đến trong vinh quang của Người’ (Mt 25:31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và cứu độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang của Người, và nếu thời cánh chung là cao điểm của Tin Mừng đầy vui mừng và hy vọng chứ không phải là cao điểm của sợ hãi âu lo, thì việc tôi phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của ba câu chuyện dụ ngôn này, nhất là dụ ngôn những yến bạc, là điều cần thiết; nhất là khi Hội Thánh, trong các tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, đang muốn gởi tới tôi một thông điệp có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể đời sống Tin Mừng của tôi.
            Câu chuyện những yến bạc gợi ta nhớ tới đoạn Tin Mừng Lu-ca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều (xem Lc 7:36-50), trong đó Đức Giê-su khảng định với một người Pha-ri-sêu có tên là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: “Vì thế tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều… Còn ai được tha ít  thì yêu mến ít”.
Trước hết số yến bạc có là năm, hai, hay một (NB: dụ ngôn này trong Lu-ca có chi tiết hơi khác, đó là mỗi đầy tớ nhận được một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc 19:11-27) mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó cho cả. Vậy thì, của cải đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì? Đấng Tạo Hóa đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu… và nhiều điều khác nữa; thế nhưng Ki-tô hữu chúng ta còn biết: Thiên Chúa cứu độ trao ban cho chúng ta một thứ còn quí báu và vĩ đại hơn nhiều đó là tình yêu tha thứ, và nén bạc này thì mọi người ai cũng nhận được hết. Chính Đức Giê-su Ki-tô đã dùng cả cuộc đời Người để minh chứng điều này: kho báu quý giá nhất mà Ki-tô hữu tìm thấy chính là ‘ơn cứu độ’ Chúa ban. Mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều tự biết mình đã nhận được số yến bạc tha thứ của Ông Chủ là bao nhiêu; từ ngày rửa tội và trong suốt năn tháng cuộc đời, kẻ năm, người hai… tùy theo nhận định riêng. Tuy nhiên vẫn có những kẻ cho rằng mình chỉ nhận được có một ít ỏi. Trong câu chuyện dụ ngôn, hai người trước biết mình nhận được một số yến bạc nào đó, đã làm sinh lợi ra nhiều yến bạc khác; “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, còn người thứ ba, vì cho rằng mình nhận được quá ít nên đào lỗ chôn giấu. Đúng là “người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn, còn ai được tha ít (đúng hơn cho là mình được tha ít) thì yêu mến ít” (Lc 7:43.47). Thái độ và lời hỗn xược của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi… Vì thế tôi đâm sợ…” Đúng là nếu có kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ thứ tha, thì cũng có không ít người suy nghĩ ngược lại, họ cho rằng Thiên Chúa quá đòi hỏi và nghiêm khắc. Rất có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình được tha nhiều và do đó yêu nhiều, trong khi lắm kẻ đạo đức thánh thiện hơn lại cho rằng mình được tha ít (hay đúng hơn ít cần được tha) nên yêu mến ít hơn, và đôi khi còn sống trong sợ hãi. Đức Giê-su đã lặp đi lặp lại ý kiến này nhiều lần tới độ một số kinh sư và các Biệt Phái cảm thấy bực tức khó chịu, phải chăng chỉ vì họ cảm thấy mình đã quá tốt qua việc trung thành giữ đạo để mà không cần gì tới lòng nhân lành tha thứ của Thiên Chúa (xem Ga 9).
Như thế tới ngày chung thẩm, khi ra trước Con Người của tình yêu và cứu độ, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi nhận ra mình đã được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi tôi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó lời phán quyết của Ông Chủ sẽ là “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”. Sẽ không có khác biệt giữa năm hay hai, quan trọng là đã nhận ra mình được tha nhiều để đáng vào hưởng tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Cũng vậy, vào ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là cảm thấy mình được tha quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà tôi vẫn coi Con Người quang lâm chỉ là một ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và xét nét. Thái độ của đầy tớ ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ luật sòng phẳng, đã trong sạch và không phạm tội… “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” để rồi phải nghe phán quyết nghiêm thẳng của Con Người quang lâm: hãy rút lại lòng thương xót đã trao, và sử với nó theo đúng luật công bằng: “hãy lấy yến bạc khỏi tay nó… quang ra chỗ tối tăm bên ngoài”, đời đời sẽ “khóc lóc nghiến răng’, vì sẽ không còn tha thứ và cứu độ nữa đối với hạng người như thế.
Ki-tô hữu sẽ là những người ngày cánh chung “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28), không  phải vì họ đã thánh thiện và đạo đức hơn nhiều người khác, hoặc vì thấy chẳng có chi phải sợ Ông Chủ vì mình đâu có phạm tội lỗi gì quá đáng, nhưng chỉ vì “anh em sắp được cứu chuộc”. Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt đời Ki-tô hữu của mình lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng phạm không hề làm họ sợ hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều nên yêu nhiều, và họ yên lòng ‘ngẩng đầu’ tiến đến trước mặt ‘Ngài Quan Án’ từ nhân, giầu lòng thương xót, và hay thứ tha.

Lạy Thiên Chúa của lòng nhân ái, con đã từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội lỗi con đã phạm. Con biết thái độ đó đối với Tin Mừng là cả một sai lầm lớn lắm! Xin cho con biết luôn ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ với niềm xác tín: con đã từng được tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy vọng và mừng vui tràn ngập tâm hồn con cũng như mọi anh chị em tín hữu, vì chúng con đã nếm cảm được tình Chúa xót thương. A-men
Tác giả bài viết: Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty,SDB

Posted By Đỗ Lộc Sơn14:53

Nén bạc tình yêu

Filled under:


Kinh Truyền Tin Quảng trường Thánh Phêrô
Chúa Nhật XXXIII TN, 13/11/2011
Anh chị em thân mến!

Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay, là Chúa Nhật áp cuối năm phụng vụ, cảnh tỉnh chúng ta về tính tạm bợ của cuộc sống trần gian, và mời gọi chúng ta sống như một cuộc lữ hành, mắt luôn dán chặt về đích điểm mà Chúa đã xếp đăt khi dựng nên chúng ta. Hơn nữa, bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên Ngài là đích điểm sau cùng và là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta (x. Thánh Âu Tinh, Tự thuật 1, 1). Cái chết,  sau đó là cuộc chung thẩm, là một giai đoạn bắt buộc mà ta phải bước qua để đạt được thực tại tối hậu này. Tông đồ Phaolô nhắc cho chúng ta “Ngày của Chúa sẽ đến như một tên trộm ban đêm” (1Th 5,2), nghĩa là không hề báo trước. Ước gì ý thức về ngày trở lại vinh hiển của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta sống tỉnh thức, chờ Người hiển linh và luôn tưởng nhớ cuộc giáng lâm đầu tiên của Người.
Trong dụ ngôn nổi tiếng về nén bạc, được Thánh sử Matthêu tường thuật (x. 25,14-30), Đức Giêsu kể câu chuyện ba người đầy tớ được chủ giao tài sản của chủ trước khi trẩy đi phương xa. Hai trong số họ cư xử rất tốt, tăng gấp đôi giá trị tài sản nhận được. Còn trái lại, người thứ ba lại đi đào một cái lại lỗ và đem giấu tiền chủ trao vào trong đó. Khi chủ trở về, ông gọi các gia nhân đến tính sổ số bạc ông đã giao, và trong khi ông hài lòng về hai người đầy tớ đầu tiên, thì ông lại thất vọng về người thứ ba. Thật thế, tên đầy tớ đã chôn giấu nén bạc chủ trao mà không hề sinh lợi, đã tính toán sai lầm: y xử sự như thể chủ mình sẽ không trở về nữa, như thể không có ngày y phải trả lẽ về những việc mình làm. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ của mình phải biết sử dụng tốt những ân huệ đã nhận được: Thiên Chúa kêu gọi mỗi người hưởng sự sống và Người giao cho họ tài năng, đồng thời cũng giao cho họ một sứ mệnh phải chu toàn. Thật là ngu dốt khi nghĩ rằng mình có quyền sử dụng những hồng ân này theo ý của mình, đồng thời từ chối sử dụng chúng cũng là một thất bại trong đời. Khi chú giải về trang Tin Mừng này, Thánh Grêgôriô Cả ghi nhận rằng Chúa không để cho một ai phải thiếu ân huệ bác ái, ân huệ tình yêu của Ngài. Thánh nhân viết: “Chính vì thế, anh em thân mến, điều quan trọng là anh em phải hết sức chú tâm duy trì tình yêu trong mọi việc anh em phải làm” (Bài giảng về các Phúc Âm 9,6). Và sau khi cắt nghĩa tình bác ái đích thực hệ tại yêu kẻ thù cũng như bạn hữu, Thánh nhân nói tiếp: “Nếu ai thiếu nhân đức này, thì sẽ đánh mất toàn bộ việc lành mà mình có, bị tước đi nén bạc mình đã nhận được và bị ném vào trong bóng tối tăm” (sđd.).


Anh em chị thân mến, chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi tỉnh thức mà Kinh Thánh không ngừng mời gọi chúng ta! Đó là thái độ của người biết rằng Chúa sẽ trở lại và muốn thấy hoa trái tình yêu của Ngài trong chúng ta. Tình ái là điều thiện cơ bản mà không một ai có thể không làm cho nó sinh lợi, và không có nó thì tất cả những hồng ân khác đều luống công vô ích (x. 1Cr 13,3). Nếu Đức Giêsu yêu thương chúng ta đến nỗi thí mạng sống mình vì chúng ta (x. Ga 3,16), thì làm sao chúng ta lại không thể yêu mến Thiên Chúa hết cả con người mình, và yêu thương nhau với hết cả tâm hồn (x. 1Ga 4,11)? Chỉ khi nào thực hiện bác ái chúng ta mới có thể tham dự vào niềm vui của Chúa. Ước gì Đức Trinh Nữ Maria dạy chúng ta chủ động và vui vẻ tỉnh thức trong cuộc hành trình gặp gỡ Thiên Chúa.

Posted By Đỗ Lộc Sơn14:45

NÉN BẠC

Filled under:


Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đờị  Hãy tưởng tượng cuộc đời như một hình tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của hình tam giác.  Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên.  Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam giác.  Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi như quan trọng hơn ở trên.  Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của hình tam giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôị  Kết quả là, chúng ta sẽ tự hỏi chính mình, “Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi sự?”  Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương trình và mục đích của Ngài.

Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy sinh cho chương trình của Ngàị  Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống của chúng ta.

Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi người với những tài năng riêng của mình.  Người thứ nhất có tài trồng cây ăn tráị  Người thứ hai chăn nuôi cừụ  Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất haỵ  Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dàị  Trước khi ra đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt.

Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp.  Nhưng rồi mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có.  Không còn đủ củi cho dân chúng sưởị  Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không?  Khi nhìn thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ làm.

Người con thứ hai cũng đã phải đối diện với một quyết định khó khăn.  Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa đông.  Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực không?  Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.

Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu để ăn trên bàn.  Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dàị  Tinh thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được.  Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối không muốn chơi đàn cho họ nghẹ  Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng, nhiều người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác.

Đến một ngày, nhà vua trở về nước.  Ông vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đị  Ông gọi ba người con lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con đã cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi .”  Người con thứ hai nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con .”

Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã ôm lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ.  Rồi người con thứ ba tiến đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đã không thể nào chơi đàn nổi vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được!”

Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con, hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan nát .”  Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của mình đã trở nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập.  Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón taỵ  Sau đó người cha nói, “Con đã có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đã từ chối không làm.  Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con.  Nhưng bây giờ chính con cũng không còn có thể chơi đàn được nữạ  Đó chính là hình phạt cho con vậy”.

Để sống một cách phong phú hơn chúng ta phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc.  Một nén bạc tương đương với 15 năm lương của một người lao động suốt cả ngàỵ  Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là “talent,” lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú … Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn …  Những tài năng này đã được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.

Posted By Đỗ Lộc Sơn14:36

Lời sông hôm nay - Ngày cuối cùng

Filled under:

14/11/14 THỨ SÁU TUẦN 32 TN
 Lc 17,26-37
CHÚA ĐẾN BẤT NGỜ
“Đêm ấy hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” (Lc 17,34-36)
Suy niệm: Người Ki-tô hữu mong đợi sau khi lìa khỏi cuộc đời ở trần gian này mình sẽ bước vào một cuộc sống mới hạnh phúc trên Nước Trời. Nhưng ngày giờ nào là ngày giờ Chúa đến gọi tôi ra khỏi trần gian này? Không ai biết trước được, ngày giờ ấy bất ngờ lắm vì nó có thể xảy đến với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào. “Người bị bỏ lại” là những người bị “dán chặt” vào lối sống đam mê hưởng thụ, những người bị “trói buộc” vào những lắng lo việc đời này đến nỗi không thể sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến. Chỉ những ai sống tinh thần siêu thoát của Tin Mừng, sẵn sàng “từ bỏ hết những gì mình có” (Lc 14,33) mới “được đem đi” đến nơi hạnh phúc khi Chúa đến bất ngờ.
Mời Bạn: Cuộc đời này được ví như một cuộc hành trình tiến về quê trời. Không thể tới đích nếu người đi đường chôn chân lại một nơi nào đó. Cũng vậy, trên đường tiến về quê trời nếu cứ bám vào những thứ trên đời này, dù đó là những thứ cần như việc làm ăn buôn bán, việc xây dựng nhà cửa, thì không thể sẵn sàng đi với Chúa khi Ngài đến đem ta đi tới nơi hạnh phúc với Ngài.
Sống Lời Chúa: Tập tinh thần siêu thoát từ bỏ bằng cách làm những hy sinh nho nhỏ mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết hướng về cuộc sống hưởng kiến Chúa trên thiên quốc, để dù đang sống ở trần gian với những hấp dẫn của nó, chúng con cũng luôn tỉnh thức.
 


Ngày 14 tháng 11
THÁNH ANRÊ AVELLINÔ
(1591-1680)
Thánh Anrê Avellinô sinh trưởng tại thành phố Napôli. Thuở thiếu thời, Avellinô đã có một lòng đạo đức và trí thông minh tuyệt vời. Lòng đạo đức và khả năng trí tuệ siêu quần ấy được thử luyện và trau dồi trong trường đời cam go nguy hiểm, khiến cho Avellinô càng cứng cáp và từng trải hơn. Thật vậy, suốt cuộc đời thiếu niên, Avellinô duy trì được đức tin trong sạch và tâm hồn đạo đức trung kiên, dầu sống giữa phong ba và bão táp cuộc đời, thật là một hạnh phúc lớn lao cho những ai sống cuộc đời trong trắng và tuân giữ luật Chúa như lời Kinh Thánh đã ghi. Sau những năm trau dồi đèn sách, nhờ khả năng đạo đức và trí tuệ thông minh, Avellinô được tuyển chọn và kêu gọi lên lĩnh chức thánh. Với trí thông minh, sâu sắc về luật pháp, kèm theo tài hùng biện, Avellinô đã cố ý chọn nghề trạng sư một thời gian phục vụ nhân loại đúng với khả năng Chúa ban.
Nhưng một biến cố bất ngờ xảy đến cho Avellinô, trong khi thi hành chức vụ làm cho ông phải hối hận và ghê sợ: Đó là một câu nói dối mà ông đã trót phạm phải! Tuy không là một trọng tội, việc đó cũng làm ông xấu hổ. Và nhờ ơn Chúa hoạt động, ông tức khắc từ bỏ nghề trạng sư hiến thân cho các linh hồn.
Ít lâu sau, Avellinô vào dòng và mang thánh hiệu Anrê. Ngài có lòng sùng kính thánh giá cách đặc biệt. Kể từ đó Avellinô là một tông đồ nhiệt thành. Thiên Chúa đã ban thưởng lòng nhiệt thành đó bằng việc cho xuất hiện những sự kiện lạ lùng nơi thánh nhân. Một đêm kia, sau khi giúp giải tội cho kẻ liệt, trên đường về trong đêm khuya u tịch, bỗng một trận cuồng phong nổi lên, cơn mưa tầm tã tiếp theo làm tắt ngọn đuốc soi đường của cha. Dầu vậy, cha và các bạn đồng hành của cha vẫn an toàn, không bị thấm một giọt nước lạnh, hơn nữa, một luồng ánh sáng lạ xuất hiện dẫn đường cho mọi người về tới nhà bình an vô sự.
Một lần khác, đang khi thánh nhân đọc kinh nhật tụng trong nhà nguyện, các thiên thần đến cùng chung với thánh nhân hát bài ca ngợi Thiên Chúa. Ơn Chúa tràn ngập tâm hồn thánh nhân và trợ lực cho ngài cách riêng trong những lúc ban hành bí tích giải tội và hướng dẫn các linh hồn. Hai nhân đức chói sáng nhất trong việc thi hành nhiệm vụ ấy được biểu dương một cách rõ rệt, đó là lòng nhiệt thành thánh thiện và đức khôn ngoan siêu việt. Thiên Chúa thường soi sáng cho ngài thấu hiểu những sự bí nhiệm của tâm hồn tội nhân, và đoán trước những chuyện tương lai.
Trong suốt cuộc đời, thánh Avellinô đã cố gắng thiết lập thêm nhiều nhà dòng, nỗ lực hoạt động thánh hóa hàng giáo sĩ, xây dựng nhiều công trình hữu ích cho các linh hồn. Thiên Chúa chúc lành trên mọi công việc đã được thực hiện vì vinh danh Người.
Thánh nhân sống đến năm 88 tuổi thì bị chứng trúng phong, không thể nói được. Trong thời gian chịu bệnh, thánh nhân chỉ rước Thánh Thể làm lương thực nuôi sống cuộc đời thánh thiện.
Lúc sắp từ giã cõi đời, để vào cuộc sống vĩnh cửu đầy hoan lạc, thánh nhân còn phải chịu một thử thách cuối cùng.  Chiến đấu với ma quỷ, chúng mặc lốt một hình thú dị kỳ, quái đản, hăm dọa kéo ngài xuống hỏa ngục. Nhưng Đức  Trinh Nữ Maria, người Mẹ mà ngài yêu quý nhất đời, và luôn luôn cầu nguyện đã cứu giúp ngài thoát cơn cám dỗ nguy hiểm.
Thánh nhân trở lại yên tĩnh và thở hơi cuối cùng trong trạng thái đang lúc mắt đăm đăm nhìn ảnh Đức Mẹ một cách trìu mến.
Từ xưa, các giáo hữu thường xin thánh Avellinô phù trợ cho khỏi phải chết bất ngờ và được nhận lãnh cái chết êm dịu an bình của người kitô hữu.

Posted By Đỗ Lộc Sơn14:31