Hiển thị các bài đăng có nhãn HỌC HỎI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn HỌC HỎI. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Hỏi : xin cha giải thích rõ những hình thức phạm tội nghịch điều rắn thứ năm của Chúa.

Filled under:



Trả lời :

Chưa bao giờ hết, con người ngày nay đang sống thiếu bác ái  yêu thương, tha thứ cho nhau từ trong gia đình ra đến bên ngoài xã hội và cộng đồng thế giới. Trong gia đình, nhiều vợ chồng đã giết nhau, bỏ nhau để lấy người khác dù đã sống chung 20 ,30, 40 năm và có con cháu đông đúc..Bên VN có những cha mẹ đã bán con gái dưới tuổi thành niên cho bọn buôn người phục vụ cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi. Điển hình ở Mỹ,  một bà mẹ đã chở hai con ra bờ biển Galveston ( Texas) và xô  chúng xuống nước để giết chúng, nhưng hai trẻ xấu số  này  đã được người khác vớt lên và thoát chết vì bà mẹ độc ác !

Trên bình diện quốc tế, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Afghanistan , Irak và mới đây giữa nhóm Hamas và Do Thái trên giải Gaza, khiến hàng ngàn thương dân bị giết oan. Đăc biệt, bọn Hồi giáo quá khích ( ISIS)  đang giết người hàng loạt bên Irak, và Syria, bách hại tàn nhẫn những tín đồ thiếu số theo KitôGiáo và ngay cả các nhóm Hồi Giáo khác không thuộc phe nhóm của chúng.
Đây là một tai họa  lớn   cho thế giới hiện nay, khiến Đức Thánh Cha Phanxicô đã phải lên án tai họa này vì những kẻ chủ chót đang nhân danh Thượng Đế của chúng để chặt đầu, giết hai thường dân vô tội ,kể cả đàn bà trẻ con.

Tại sao có những sự dữ nói trên từ trong gia đình ra đến cộng đồng thế giới như vậy?

Lý do duy nhất  để giải thích là  tại con người không còn biết yêu thương, tôn trọng sinh mang,danh dự , quyền sống  và tư hữu của người khác, không biết  tha thứ cho nhau từ trong gia đình ra đến bên ngoài xã hội.

Khi giết hại nhau, con người –có niềm tin hay không-  đã chà đạp giới răn  Thứ Năm của Thiên Chúa cấm con người không được giết nhau. Sở dĩ thế, vì sự sống  là  quà tặng thiêng liêng vô cùng quí giá mà Thiên Chúa đã  ban cho con người. Và chỉ một mình Ngài có quyền trên sự sống  đó  mà thôi.

Chính vì vậy mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái lệnh cấm này: 
Ngươi không được giết người” (Xh 20:13)

Sau này, trong bài giảng “Trên Núi”, Chúa Giêsu cũng  đã nhắc lại lệnh cấm trên và   còn ngăn cấm thêm cả việc  giận dữ, oán  ghét và trả thù nhau nữa:

Anh  em đã nghe Luật dạy rằng: chớ giết người, ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh  em mình thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh  em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng…”(Mt 5:21)

Chúa cấm oán thù và giết người vì Thiên Chúa là “tình thương, chậm bất bình và hay tha thứ”, nên ai không yêu thương thì không không biết Thiên Chúa là tình yêu. ( 1 Ga 4: 8).

Chúa Giêsu không những dạy  yêu thương người thân thuộc mà đặc biệt còn phải   
yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh  em.”  nữa (Ga. 5: 44)
Chính Chúa đã  nêu gương yêu thương và  tha thứ này khi Người cầu nguyện và tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người như sau:

 Lậy Cha ,xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm. ( Lc 23: 34)
Cụ thể hơn nữa, Chúa đã tha thứ cho một gian phi ( kẻ trộm lành) cùng bị đóng đinh với Người  vì anh này biết sám hối và xin tha thứ:

 Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi  trên Thên Đàng.( Lc 23: 43)
Như thế cho ta thấy luật yêu thương quan trọng thế nào đối với mọi tín hữu Chúa Kitô ngày nay phải sống  giữa những nghịch cảnh của sự oán thù, nghen nghét, chém giết, sát hại nhau về mọi mặt tinh thần , tình cảm và thể lý ở khắp nơi trên thế giới.Có thể nói sự dữ  oán thù và giết  hại nhau đang thống trị thế giới và  quá nhiều người ở mọi nơi, thuộc  mọi nền văn hóa, ngôn ngữ.

Do đó, để đem lai an vui, bình  an  cho con người  từ trong gia đình  ra đến bên ngoài cộng đồng thế giới, thì thật cần thiết phải thực thi  luật yêu thương của Chúa,  và  giáo  lý của  Giáo Hội  dạy  về   những việc phải làm và không được làm liên quan đến  luật cấm làm hại và  giết người như Thiên Chúa đã nghiêm khắc ngăn cấm  trong  giới răn Thứ Năm của Bản Thập Giới (Decalogue). Cụ thể  áp dụng như sau:

1. Về mặt thể lý,cấm cố sát và tự sát (murder and suicide)

Vì chỉ một mình Thiên Chúa nắm trọn quyền sinh tử của mọi loài thụ tạo, nên không ai được phép giết người khác, dù là một thai nhi còn trong lòng mẹ, hay một bệnh nhân đang  thoi thóp trên giường bệnh và y khoa đang bó tay cứu chữa .Nói rõ hơn, không ai được phép trực tiếp hay gián tiếp làm điều gì khiến người khác phải thiệt mạng sống vì mình, cũng như không được phép  hủy hoại cơ thể như chặt cắt một bộ phận nào của thân thể- dù vì mục đích y khoa-  nhất là tự sát (tự tử) vì bất cứ lý do gì.

Như thế, để tôn trọng và bảo vệ sự sống là quà tặng linh thánh (sacred) Chúa ban, thì  không những không được trực tiếp giết người hoặc tự sát mà còn phải tránh những hành vi gián tiếp giết người như cộng tác có hiệu quả cho ai phá thai hoặc giết người khác,Ai phạm tội ngày sẽ tức khắc bi vạ tuyệt thông tiền kết ( latae sententiae, giáo luật số 1398) và  chỉ có Tòa Thánh được quyền  tháo gỡ mà thôi.

Ngoài ra ,được kể là có tội nếu  dùng thuốc cho chết êm dịu (euthanasia) dù y khoa đã bó tay. (SGLGHCG, số 2268-2270). Nói rõ hơn, dù cho bác sĩ đã vô phương cứu chữa thì phải để cho cái chết xảy ra cách tự nhiên ( natural death) chứ không được phép kết thúc sự sống cho nhanh bằng cách cho chich thuốc để  "chết êm diu=Euthanasia"theo lời khuyên của bác sĩ, y tá không có niềm tin Công Giáo. Chỉ trong trường hợp tim đã tự nhiên ngưng đập, óc não đã hết hoạt động và bênh nhân chỉ còn thở vì nhờ có  máy hô hấp (respirator) thì  khi đó  mới được phép rút máy ra vì để lâu cũng vô ích và còn thêm tốn phí cho gia đình bệnh nhân.

Ngoài ra, cũng trong mục đích bảo vệ sự sống, phải tránh những hành vi hay phương thế có thể gây nguy hại cho sức khỏe nhất là gây nguy hiểm cho mạng sống của mình và của người khác, như ăn uống quá độ, lạm dụng rượu ,thuốc lá và ma túy, lái xe quá tốc độ có thể  gây tai nạn cho chính mình và cho người khác cách vô cớ.Nghĩa là, nếu liều lĩnh lái xe quá nhanh ,hoặc  vượt đèn đỏ gây tai nạn hay tử thương cho ai thì đó là tội lỗi điều răn thứ năm mà người Công giáo cần phải tránh.

2. Về mặt tinh thần, phải tôn trọng nhân phẩm và linh hồn của người khác:

Giới răn thứ năm không những cấm làm những điều có hại cho sự sống thể lý của mình và của người khác như đã nói ở trên mà còn ngăn cấm cả những gì làm thiệt hại đến , tinh thần, danh dự và  đời sống thiêng liêng  của tha nhân  nữa.

Thật vậy, sự sống vẹn toàn của con người  gồm hai phần hồn và xác. Do đó, Thiên Chúa buộc con người phải tôn trọng sự sống thể lý của mình và của người khác, cũng như tôn trọng danh dự, đời tư và linh hồn của người khác như chính của mình.

Cụ thể, không được nói hay làm điều gì có hại cho thanh danh, đời tư của người khác. Không ai có bổn phận phải tố cáo cho người khác biết những gì có liên quan đến sự xấu kín của người khác.. Thí dụ, biết người nào đó ngoại tình, có tính gian tham,  thì người tín hữu Chúa Kitô không được phép tiết lộ cho người khác  biết chuyên "bê bối"  của người này khiến  phương hại cho thanh danh của nạn nhân trong công luận.Nếu vì bác ái thì chỉ nên cầu nguyện và tìm cách khuyên bảo kín người có đời sống sai trái đó mà thội. Nhưng ngược lại, nếu biết có người đã có vợ, có chồng mà  đang dối gạt để lấy người khác,  thì buộc phải tố cáo cho giáo quyền địa phương biết để ngăn cản việc sai trái về luân lý, giáo lý và giáo luật. Cũng vậy, khi biết có kể đang âm mưu giết ai, thì phải tố cáo cho nhà cầm quyền biết để ngăn chặn sự dữ khỏi xảy ra.

Trong mục đích tộn  trọng thanh danh và đời sống tinh thần của người khác, giới răn thứ Năm cũng đòi buộc mọi tín hữu phải tránh gương xấu làm cớ cho người khác vấp ngã, phương hại cho phần rỗi của tha nhân.

Cụ thể, không được tiếp tay với ai để khai thác kỹ nghệ  cờ bạc  nhất là kỹ nghệ mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho thú vui  vô luân, vô Đạo .Cộng tác vào những việc vô luân vô đạo này thì trước hết tự gây nguy hại cho linh hồn của chính  mình và cho phần rỗi của người đi tìm những thú vui cực  kỳ vô luân vô đạo đó. Ngoài ra,  buôn bán sách báo, phim ảnh bạo động và khiêu dâm cũng là điều phải tránh   để không  đầu độc giới trẻ và xô đẩy người lớn vào đường trụy lạc, phương hại cho phần rỗi của họ. Đây chính là   gương xấu phải tránh  mà  Chúa Giêsu đã khiêm khắc cảnh cáo sau đây:  

Không thể  không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã ! thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ nhỏ này vấp ngã. Anh  em hãy đề phòng." ( Lc 17: 1-3)

Thi hành lời dạy trên của Chúa , Giáo lý của Giáo Hội giải thích thêm như sau:
Gương xấu là thái độ hoặc cử chỉ khuyến khích tha nhân làm điều ác.Người làm gương xấu đã trở thành kẻ cám dỗ  người khác. Nó phá hoại nhân đức và sự  ngay chính.Nó có thể lôi kéo người đồng loại vào chỗ chết về phần linh hồn. Gương xấu là lỗi nặng nếu hành vi hoặc thái độ của người đó cố ý lôi kéo tha nhân vào một lỗi nặng." ( SGLGHCG, số 2284)

Nói khác đi, không phải chỉ giết người  mới là lỗi Điều Răn Thứ Năm, mà phải kể thêm  những việc làm có hại cho sức khỏe của mình và  của người  khác như chơi trò đấm đá ( boxing ), đua xe hơi ( auto race) buôn bán ma túy, cẩn sa, ăn uống quá độ, lái xe ẩu như đã nói ở trên. Mặt khác giới răn thứ năm cũng đòi buộc phải xa tránh những lối sống và nguy cơ tội lỗi cho chính mình và cho người khác như tiếp tay phổ biến dịp tội bằng việc mở sòng bạc, mở nhà chứa gái mãi dâm, buôn bán sách báo , phim ảnh khiêu dâm, buôn bán trẻ em và phụ nữ cho dịch vụ mãi dâm và ấu dâm ( child prostitution) vô luân vô đạo,.. tất cả đều lỗi nghịch Điều Răn Thứ Năm mà là người tín hữu Chúa Kitô chúng ta phải hết sức xa tránh để mưu ích hồn xác cho mình và cho người khác.

Tóm lại, mọi giới luật của Chúa đều nhằm mục đích đem lại lợi ích và hạnh phúc cho con người ngay trong cuộc sống ở đời này trước khi được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.Do đó , muốn tránh oán thù, chia rẽ, giết nhau từ trong gia đình đến bên ngoài xã hội và cộng đồng thế giới thì con người phải biết yêu thương, nhịn nhục và tha thứ, nếu không thì sự dữ sẽ ngày một thêm tăng vì con người tự làm khổ  mình và kẻ khác. Thiên Chúa tuyết đối không có lợi lộc gì mà phải ngăn cấm con người làm điều này tránh điều kia. Chúa ngăn cấm vì lợi ích của con người mà thôi. Vì thế,, tuân giữ các giới răn của Chúa- đặc biết là luật cấm giết người-  là tự tạo an vui hạnh phúc cho chính mình và cho người khác trong tâm tình cảm tạ Chúa đã thương ban những giới luật cần thiết cho ta tuân giữ để được chúc phúc và nhất là được cứu rỗi để sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.. Chúa nói: “ ai có tai nghe thì nghe ( Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8)


LM .Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Posted By Đỗ Lộc Sơn13:53

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

Tôn giáo có cần cho con người không?

Filled under:


Posted By Đỗ Lộc Sơn04:04

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

Những công trình Giáo hội Công giáo cống hiến cho nhân loại

Filled under:


(By Fr Andrew Pinsent, on Friday, 6 May 2011) Chủ nghĩa thế tục hóa và chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân được cổ súy mỗi ngày một mạnh mẽ qua các phương tiện truyền thông của thời kỹ thuật số, đang tìm cách hạ uy tín của Giáo Hội Công Giáo – chứng nhân của Chân Lý, Hy Vọng và Niềm Hạnh Phúc Vĩnh Hằng – là khuynh hướng của thế giới ngày hôm nay. Nhân loại không biết rằng, nền văn minh tiến bộ ngày hôm nay họ đang hưởng dùng đều bắt nguồn từ Giáo Hội Công Giáo như người tiên phong mở đường đưa họ đến những chân trời mới lạ… Bài viết dưới đây của Cha Andrew Pinsent cho thấy điều đó…

Cha Andrew Pinsent, tác giả của bài viết này, là một Linh Mục của giáo phận Arundel và Brighton và là Giám Đốc Nghiên Cứu của Trung tâm Khoa Học và Tôn Giáo Ian Ramsey tại Đại học Oxford. Cha nguyên là một nhà vật lý phân tử tại CERN [1]. Cha cũng là người đồng sáng lập cùng với Cha Marcus Holden, thành lập Dự Án Rao Giảng Tin Mừng (Evangelium Project), nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục Công giáo. (Xin tham khảo thêm website của dự án này ở www.evangelium.co.uk.)


 
Tượng Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc ở thành phố Rio de Janeiro, Brazil 

Giới thiệu

Tại một cuộc tranh luận gần đây được BBC phát sóng trên toàn thế giới, có hơn 87 phần trăm khán giả đã bác bỏ quan điểm cho rằng Giáo Hội Công Giáo là một tổ chức tích cực trên thế giới. Mặc dù những người bênh vực Giáo Hội ra sức đương đầu với những thách thức, khó khăn của chiều kích toàn cầu hóa và hưởng thụ hóa, tuy thế, phần lớn dư luận cho rằng cuộc bình chọn trên phản ánh một thái độ thay đổi đối với Kitô Giáo nói chung và niềm tin Công Giáo nói riêng. Nói thẳng ra không cần úp mở, trong thời gian trước đây, mọi người xem Giáo Hội chúng ta tốt đẹp, còn bây giờ, chúng ta ngày càng bị xem là xấu xa, tiêu cực. Kết quả là, việc giảng dạy đức tin và bảo vệ đạo đức Kitô giáo thật sự đã trở nên khó khăn hơn nhiều trong thời đại hôm nay.

Để giải quyết thách đố trên nơi chính gốc rễ của nó, tôi tin rằng đây là điều tối quan trọng, là chúng ta phải luôn tự nhắc nhở chính mình về niềm tin Công giáo là một thực tại tốt đẹp trên thế giới. Chúa Giêsu nói: “Người ta sẽ biết các con bằng hoa trái việc làm của các con”, và thậm chí cả một số người ở bên ngoài Giáo Hội đánh giá rất cao thành quả mà Giáo Hội có được. Trong năm 2007, ví dụ, một doanh nhân vô thần, ông Robert Wilson, đã tặng 22.500.000 $ (tức khoảng 13.500.000 £) cho việc giáo dục Công giáo tại New York, và ông cho rằng, “không có Giáo Hội Công Giáo, sẽ không có nền văn minh phương Tây.”

Lấy cảm hứng từ cái nhìn sâu sắc của doanh nhân vô thần Robert Wilson, gần đây tôi đã làm việc chung với cha Marcus Holden, linh mục chánh xứ của Ramsgate và là tuyên úy tại Maryvale, bằng cách đối chiếu những đóng góp đặc biệt mà văn hóa và tinh thần Công giáo mang lại cho con người. Những phần dưới đây cho thấy sự đóng góp này thật là vô giá mà bất kỳ ai cũng đều phải chân nhận điều đó khi phải đối mặt với câu hỏi: “Giáo Hội đã từng làm cho chúng ta những điều gì?”

Để hiểu hơn về những thành quả mà Đức Tin Công giáo đã mang lại cho nhân loại trong nhiều lĩnh vực khác, xin các bạn xem tác giả Lumen: “Quà Tặng Công Giáo cho Nền Văn Minh” (The Catholic Gift to Civilization), được Hội Sự Thật Công Giáo xuất bản vào tháng 1 năm 2011.

1. Ánh sáng và vũ trụ

Tác phẩm nổi tiếng Maius Opus (năm 1267) [2] của một thầy dòng Thánh Phanxico, Thầy Roger Bacon, (mất năm 1292), được viết theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clement IV, bắt đầu khai mở một khoa quang học truyền thống trong thế giới La-tinh. Những cặp kính đeo mắt đầu tiên đã được phát minh ở Ý vào khoảng năm 1300, và một trong những ứng dụng của thấu kính đó sau này được phát triển thành kính viễn vọng và kính hiển vi.

Rất nhiều người nghĩ Galileo (mất năm 1642) do bị bức hại, họ có xu hướng không quan tâm đến những hoàn cảnh đặc thù của sự kiện này, thực tế là nhà bác học Galileo không bị hành hình và bị thiêu chết trên giàn hỏa, nhưng nhà bác học đã chết trên giường, và con gái của nhà bác đã trở thành một nữ tu.

Lịch Gregorian (được phát kiến năm 1582), nay được sử dụng trên toàn thế giới, là một thành quả phát minh bởi nhà thiên văn học Công giáo, và công trình vật lý thiên văn nghiên cứu quang phổ do Cha Angelo Secchi (mất năm 1878) đã phát minh và để lại cho nhân loại.

Công trình đáng kể nhất về nghiên cứu vũ trụ, đó chính là vụ nổ Big Bang, một lý thuyết quan trọng nhất của vũ trụ học hiện đại, được phát minh bởi một linh mục Công giáo, Cha Georges Lemaitre (mất năm 1966), thực tế về phát minh lịch sử này, đài BBC gần như không bao giờ đề cập, hay được nói đến trong các sách khoa học phổ biến.

2. Trái đất và Thế Giới Tự Nhiên

Nền văn minh Công giáo đã góp phần đáng kể vào việc tầm tra khoa học và vẽ bản đồ của trái đất, do Giáo Hội Công Giáo khích lệ những nhà thám hiểm thế giới vĩ đại như Marco Polo (mất năm 1324), Hoàng tử Henry the Navigator (mất 1460), Bartolomeu Dias (mất năm 1500), Christopher Columbus (mất năm 1506) và Ferdinand Magellan (mất năm 1521). Chẳng những không tin vào lý thuyết thế giới bằng phẳng như cái đĩa (một huyền thoại phát minh ra trong thế kỷ 19), những nhà thám hiểm người Công giáo này còn mang đến cho nhân loại một bản đồ khoa học đầu tiên: bản đồ Padrón Real của Diogo Ribeiro (mất năm 1527). Cha Nicolas Steno (mất năm 1686) là người sáng lập của các môn địa tầng học, giải thích các tầng lớp đá là một trong những nguyên tắc về địa chất học.

Nhà bác học Jean-Baptiste Lamarck (mất năm 1829), một người Công giáo Pháp, lập ra lý thuyết đầu tiên của sự tiến hóa, bao gồm những khái niệm về sự biến đổi của các loài và sự liên hệ giữa các loài thể hiện qua cây phả hệ. Tu sĩ Augustine Gregor Mendel (mất năm 1884) lập ra khoa di truyền học dựa trên việc nghiên cứu tỉ mỉ các đặc tính di truyền của khoảng 29.000 loại thực vật họ đậu.

3. Triết học và Thần học

Công Giáo xem triết học, theo như bản chất của chính bộ môn này, thật thích hợp và có ích lợi cho việc phát triển trí năng đồng thời là một thành phần không thể thiếu được để xây dựng môn thần học là môn học ứng dụng lý trí  để có thể lãnh hội được những thực tại thuộc thế giới siêu nhiên. Những cây đại thụ của triết học Công Giáo có Thánh Augustine (mất năm 430), Thánh Thomas Aquinas (d 1274), Thánh Anselm (mất năm 1109), Chân Phước Duns Scotus (mất 1308), triết gia Suárez (mất 1617) và triết gia Blaise Pascal (mất 1662). Những triết gia Công Giáo gần đây có Thánh Edith Stein (mất năm 1942), triết gia Elizabeth Anscombe (mất 2001) và triết gia Alasdair MacIntyre… Trên cơ sở đó, Công Giáo tin tưởng Thiên Chúa là Thiên Chúa của lý trí và tình yêu. Người Công giáo đã bảo vệ tính vẹn toàn của con người đối với thế giới vật chất, nguyên lý nền tảng của sự hiện hữu của thế giới sinh vật và vật chất, nguyên nhân tối hậu của những hành động, ý chí tự do, vai trò của các nhân đức trong vấn đề hạnh phúc, mục đích tốt và xấu, luật tự nhiên và nguyên tắc tương hợp – không mâu thuẫn. Những nguyên tắc này đã có một ảnh hưởng khôn lường trên đời sống trí thức và văn hóa của nhân loại cho đến ngày hôm nay.

4. Giáo dục và hệ thống các trường đại học

Có lẽ sự đóng góp lớn nhất và độc đáo nhất về giáo dục mà Công Giáo mang lại cho nền văn minh nhân loại là sự phát triển của hệ thống trường đại học. Các trường đại học Công Giáo có sớm nhất bao gồm Đại Học Bologna (thành lập năm 1088); Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224) và Đại Học Vercelli (1228). Đến giữa thế kỷ 15 (hơn 70 năm trước khi thời kỳ Cải Cách), đã có trên 50 trường đại học Công Giáo ở châu Âu.

Rất nhiều trường trong số các trường đại học này, chẳng hạn như Đại Học Oxford, vẫn còn đó những dấu hiệu nguồn gốc Công Giáo của mình, ví dụ như cái huy hiệu bốn cạnh tượng trưng cho Thánh Giá được treo trên khắp các hành lang quanh Đại Học giống như trong các tu viện, lối kiến trúc Gothic và rất nhiều nhà nguyện. Ngay từ thế kỷ thứ sáu, Công Giáo ở Châu Âu đã hình thành và phát triển một hệ thống giáo dục mà sau này được gọi là trường học ngữ pháp, và trong thế kỷ 15, hệ thống in ấn báo chí được phát triển và ứng dụng trong các trường học và đã mang lại những lợi ích khôn lường cho việc giáo dục. Ở thời điểm hiện tại ngày hôm nay, người ta ước tính rằng các trường học Công Giáo đang giáo dục và đào tạo cho hơn 50 triệu sinh viên trên toàn thế giới.



 

5. Nghệ thuật và kiến trúc


Niềm tin vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ngôi Lời mang lấy xác thể, và Hy Tế của Thánh Lễ đã trở nên nguồn cảm hứng bất tận làm phong phú cho việc Giáo Hội Công Giáo đóng góp cách đặc biệt vào lãnh vực nghệ thuật và kiến trúc. Những đóng góp này bao gồm: các Đại Thánh Đường ở Rô-ma; các tác phẩm của Giotto (mất 1337), người đã khởi xướng chủ nghĩa hiện thực trong hội họa qua các bức tranh “Những Chặng Đàng Thánh Giá của Anh Em Tu Sĩ Dòng Thánh Phan-xi-cô”, đã truyền cảm hứng cho loại hình nghệ thuật ba chiều và phim truyền hình, kịch nghệ ngày nay; việc phát minh loại hình hội họa nghệ thuật phối cảnh không gian ba chiều xuất phát từ một điểm quy chiếu mà ta gọi là điểm tuyến tính phối cảnh do một người Công Giáo tìm ra, đó là họa sĩ Brunelleschi (mất năm 1446); và các công trình nổi tiếng của thời kỳ Phục Hưng vẫn còn đó trong các viện bảo tàng ở Châu Âu.

Loại thứ hai bao gồm các tác phẩm của Chân Phước Fra Angelico (mất năm 1455), mà hôm nay người ta chọn làm vị thánh bảo trợ nghệ thuật; và công trình vô song của danh họa Leonardo da Vinci (mất 1519), danh họa Raphael (mất 1520), danh họa Caravaggio (mất 1610), danh họa Michelangelo (mất 1564) và danh họa Bernini (mất 1680). Rất nhiều công trình nghệ thuật của những nghệ sĩ này, chẳng hạn như bức họa trên trần nhà nguyện Sistine, được coi là một trong những công trình nghệ thuật lớn nhất của mọi thời đại. Giáo Hội Công Giáo cũng để lại các thể loại hình tổng thể kiến trúc rất độc đáo, ví dụ như kiểu Byzantine, kiểu xây dựng Romanesque, kiểu kiến trúc Gothic, kiểu nhà thờ Phục Hưng và kiểu kiến trúc Baroque. Bức tượng Chúa Ki-tô Cứu Thế (Cristo Redentor) [4] ở Brazil và Vương Cung Thánh Đường Sagrada Familia ở Barcelona cho thấy rằng đức tin Công Giáo vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng bất tận cho nền nghệ thuật và kiến trúc truyền thống mọi thời.

6. Pháp Luật và Luật Học

Những cải cách của Đức Giáo Hoàng Gregory VII (mất năm 1085) cũng tạo nên động lực để hình thành những bộ luật của Giáo Hội và của các quốc gia Châu Âu. Việc ứng dụng những nguyên tắc của triết học vào pháp luật, cùng với các công trình nghiên cứu rất đáng trân trọng của các tu sĩ ở thế kỷ thứ 12, đã tạo ra một bộ luật hoàn chỉnh và có tính khoa học đầu tiên mà trong đó tất cả điều khoản, các phần được xem như là tương hợp với nhau trong một tổng thể chung. Cuộc cách mạng này dẫn đến việc thành lập các trường luật, bắt đầu tại trường Đại Học Bologna (1088), từ đó nghề luật sư nổi lên, và khái niệm như “tổ chức pháp nhân”, “cơ quan”, “tổ chức”… rồi đến các cơ sở pháp lý của một loạt các cơ quan chẳng hạn như các trường đại học, các công ty và quỹ tín thác… xuất hiện trong vài thập niên cách đây… Những nguyên tắc pháp lý như “thiện ý”, tôn trọng quyền lợi, bình đẳng trước pháp luật, luật pháp quốc tế, xét xử, bồi thẩm đoàn, lệnh đình chỉ bắt giam, và việc bắt buộc phải chứng minh sự hồ nghi tội phạm vượt quá khả năng phạm tội… đó là tất cả những thành quả của nền văn minh và khoa luật pháp mà Công Giáo mang đến cho thế giới.

7. Ngôn Ngữ

Việc nhấn mạnh tiếng Hy Lạp và tiếng La-tinh trong truyền thống Công Giáo đã tạo ra nhiều thuận lợi cho việc phổ biến khả năng đọc viết cho mọi người, vì khi bảng chữ cái được phát minh thật sự đã làm cho việc đọc và viết dễ dàng hơn so với ngôn ngữ mang nhiều biểu tượng, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc. Sự mở rộng công việc truyền giáo mà Giáo Hội Công Giáo có nhiệm vụ phải thực hiện theo lệnh Chúa Giê-su, và những cuộc thăm dò, thám hiểm đã làm cho bảng chữ cái Latinh được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống chữ viết trên khắp thế giới. Công Giáo cũng phát triển các bản chữ cái tiếng Armenia, Georgia và Cyrillic, và những bản chữ in tiêu chuẩn, như bản Carolingian khổ rất nhỏ ngay từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 12, và cả bản chữ in Gothic rất nhỏ (từ thế kỷ 12).

Công Giáo cũng tạo nên một cái khung nền cho các tác phẩm văn hóa như Divina Commedia (Thiên Sử Thi do Dante viết) [5], các Cantar de Mio Cid (Câu Chuyện và Truyền Thuyết về Một Quý Tộc thời Trung Cổ) và La Chanson de Roland (Bài Ca của Roland), và rất nhiều tác phẩm bằng tiếng địa phương đã tác động đến sự phát triển của Ý , Tây Ban Nha và Pháp cách đáng kể. Bài Vinh Tụng Ca Công Giáo của Cædmon [6] viết vào thế kỷ thứ bảy được cho là văn bản tiếng Anh cổ lâu đời nhất còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Valentin Haüy (mất năm 1822), anh trai của Abbé Haüy (là một linh mục, người phát minh ra tinh thể học), thành lập ngôi trường học đầu tiên cho người mù. Sinh viên nổi tiếng nhất của trường này, Louis Braille (mất năm 1852) [7], đã phát triển một hệ thống chữ cho người mù học mà ngày nay trên toàn thế giới hệ thống chữ dành cho người mù này mang tên ông.


8. Âm Nhạc

Xuất phát từ âm nhạc phụng tự của những người Do Thái từ thời Cựu Ước, Công giáo hầu như phát minh ra nền văn minh truyền thống âm nhạc phương Tây. Thể loại Bình Ca Đơn Âm Gregorian (Monophonic Gregorian chant) dùng trong phụng vụ Rô-ma phát triển từ thế kỷ thứ sáu. Những phương pháp ký âm giai điệu đã làm phát sinh ra những khái niệm âm nhạc (như ký hiệu khuông nhạc) mang đến những lợi ích không đếm xuể cho việc ghi chép các tác phẩm âm nhạc, và hệ thống thang âm “ut-re-mi” (do-re-mi) là công trình của một tu sĩ dòng Benedictine, Thầy Guido of Arezzo (mất năm 1003 ). Từ thế kỷ thứ 10 các trường phái thánh ca phát triển âm nhạc đa âm, sau này mở rộng đến 40 giọng (Tallis, Spem in Alium) và thậm chí đến 60 giọng (Striggio, Missa Sopra Ecco).

Các thể loại âm nhạc mà hầu như phần lớn, hoặc toàn bộ đều bắt nguồn từ nền văn minh Công Giáo bao gồm các bài thánh ca, các thể loại diễn xướng và nhạc kịch opera. Nhạc sư Haydn (mất 1809), một người Công giáo mộ đạo, đã định hình cách vững chắc cho sự phát triển của các bài giao hưởng và bộ tứ tấu đàn dây (violon, viola, cello và bass). Qua sự bảo trợ của Giáo Hội và việc khích lệ các hình thức phụng vụ, nhiều công trình tác phẩm vĩ đại được hình thành bởi các nhạc sĩ bậc thầy như Monteverdi (mất năm1643), Vivaldi (mất năm 1741), Mozart (mất năm 1791) và Beethoven (mất năm 1827). Bản nhạc Đại Giao Hưởng  số 8 của Mahler (mất năm 1911) lấy chủ đề và nguồn cảm hứng từ bài thánh ca cổ xưa của Lễ Ngũ Tuần, Veni creator Spiritus.

9. Chỗ đứng của phụ nữ

Trái với định kiến thông thường trọng nam khinh nữ, nền văn minh Công Giáo coi trọng và đề cao những phụ nữ nổi tiếng và có ảnh hưởng. Giáo Hội đã tôn vinh nhiều vị thánh nữ, kể cả những vị thánh nữ tiến sĩ gần đây của Giáo Hội, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu tuyệt vời, chẳng hạn như Thánh nữ Hilda (mất năm 680) (về sau trường học của Thánh nữ Hilda lập, được đặt tên là Oxford) và Chân Phước Hildegard von Bingen (mất năm 1179 ), là nữ tu viện trưởng và là một người uyên bác. Những phụ nữ Công giáo đi tiên phong trong lãnh vực chính trị có Hoàng hậu Matilda (mất 1167), nữ quận chúa Eleanor của Aquitaine, một người giàu có, quyền lực và nhân ái (mất năm 1204) và Nữ hoàng đầu tiên của nước Anh, Mary Tudor (mất năm 1558).

Công giáo cũng mang đến cho nền văn minh nhân loại nhiều nhà khoa học và giáo sư đầu tiên của thế giới là những phụ nữ: nữ giáo sư vật lý người Ý, Trotula của thành Salerno trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý người Ý, Dorotea Bucca (mất năm 1436), là người đã giữ ghế giáo sư y khoa tại Đại học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia thành Venice (mất năm1684), lần đầu tiên người phụ nữ nhận được một văn bằng Tiến sĩ Triết học (1678) và Maria Agnesi (d 1799), một triết gia, một nhà ngữ học và toán học là người phụ nữ đầu tiên được Đức Giáo Hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại Ý vào năm 1750.

By Philip Tran
Nguồn http://www.catholicherald.co.uk

From http://luudautinhthan.soforums.com/
--------------------------------------------------------
Chú thích
[1] CERN được bắt nguồn từ các từ viết tắt tiếng Pháp: Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire, một cơ thể thành lập năm 1952 với nhiệm vụ thành lập một tổ chức nghiên cứu vật lý cơ bản với tầm cỡ thế giới đặt ở châu Âu. (http://angelsanddemons.cern.ch/)
[2] Tác phẩm Majus Opus (Latinh có nghĩa là  ”Đại công trình”) là công trình quan trọng nhất của Roger Bacon (c. 1214–1294). Nó được viết bằng tiếng Latin trung cổ, theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clement IV, để giải thích những công việc mà Bacon đã thực hiện. Cuốn tổng luận dày 840 trang bàn về tất cả các khía cạnh của khoa học tự nhiên, từ ngữ pháp và logic cho đến toán học, vật lý, và triết học. Tác phẩm Bacon đã được gửi đến Đức Giáo Hoàng trong năm 1267, kèm theo một lá thư ông bày tỏ sự cống hiến đó, đã được tìm thấy bởi FA Gasquet tại Thư viện Vatican và đã được xuất bản vào năm 1897.
[3] Lịch Gregorian, còn được gọi là lịch phương Tây, hoặc lịch Kitô giáo, là lịch quốc tế, được cải cách từ lịch Julian kết hợp với chu kỳ của mặt trăng để tính ngày Lễ Phục Sinh. Nó được giới thiệu bởi Giáo hoàng Gregory XIII, mà sau này người ta dùng tên ngài để đặt tên cho lịch này. Lịch được cải cách, thông qua năm 1582 bởi một số quốc gia, và lịch này được dùng cho đến ngày nay.
[4] Bức tượng Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc (tiếng Bồ Đào Nha: Cristo Redentor) được làm bằng bê tông cốt thép kết hợp với đá, và được xây dựng giữa năm 1922 và 1931. Bức tượng đặt ở thành phố Rio de Janeiro, Brazil; được coi là một công trình nghệ thuật lớn thứ hai trên thế giới. Tượng cao 39,6 mét (khoảng 130 feet), bao gồm: bệ có chiều cao là 9,5 mét, hai cánh tay giang rộng 30 mét, nặng 635 tấn và được đặt tại đỉnh núi Corcovado cao 700 mét (khoảng 2.300 feet) trong rừng Vườn quốc gia Tijuca nhìn ra thành phố Rio de Janeiro. Bức tượng đã trở thành một biểu tượng Ki-tô Giáo của thành Rio de Janeiro và của nước Brazil.
[5] The Divine Comedy( Italian: Divina Commedia), được Dante Alighieri (1256–1308) viết vào khoảng 1308 cho đến trước khi ông ta chết 1321. Bài thơ sử thi đồ sộ này được coi là trung tâm của văn học Ý, và là công trình vĩ đại nhất của văn học thế giới. Tầm nhìn và trí tưởng vô cùng phong phú cùng sự ngụ ngôn trong bài thơ của một tín hữu Công Giáo là một cái nhìn tột bậc về thế giới trung cổ cũng như sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo. Được thiết lập trên phương ngữ của tiếng Tuscan và viết theo chuẩn mực của tiếng Ý, bài sử thi này gồm hơn 14.000 dòng được chia làm 3 phần Inferno (Hỏa Ngục), Purgatorio (Luyện Ngục), và Paradiso (Thiên đàng).
[6] Cædmon (mất năm 680) là nhà thơ người Anh đầu tiên được thế giới biết đến. Cædmon cũng là một tu sĩ nhiệt thành và một nhà thơ đầy cảm hứng tôn giáo. Cædmon là một trong mười hai nhà thơ Anglo-Saxon được biết đến trong thời trung cổ. Công trình hiện còn lại của Cædmon, bài Cædmon’s Hymn, là bài thơ khen ngợi, vinh danh Thiên Chúa. Bài thơ là một trong những ví dụ chứng tỏ sự xuất hiện của tiếng Anh rất sớm.
[7] Louis Braille, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1809 tại Coupvray (gần Paris), Pháp, mất ngày 6 tháng 1 năm 1852, là người phát minh ra kiểu chữ Braille dành cho người mù và người khiếm thị. Cha ông, ông Simon-René Braille, là thợ sản xuất yên và cương ngựa. Năm lên ba tuổi, Louis bị thương ở mắt trái do bị dùi đâm phải. Vết thương bị nhiễm trùng và lây sang mắt phải, khiến Braille bị mù hoàn toàn. Vào năm mười tuổi, ông giành được học bổng đi học tại Học viện Hoàng gia dành cho Thanh niên mù (ngày nay là Học viện Quốc gia dành cho Thanh niên mù) tại Paris. Ở trường, những đứa trẻ được học đọc các ký tự in nổi nhưng không thể học viết do các ký tự được tạo thành do những trang giấy ép lên sợi dây đồng.
Đến năm 13 tuổi, ông phát minh ra hệ thống các dấu chấm nổi, nhờ ý tưởng qua cuộc viếng thăm của ông Đại úy về hưu Charles Barbier của Serre, người đã phát triển một hệ thống chữ viết cho phép người ta trao đổi mệnh lệnh quân đội trong đêm tối. Hệ thống này dựa trên mười hai chấm, do đó nó khá phức tạp, còn hệ thống của Braille chỉ sử dụng sáu chấm. Braille còn cải tiến hệ thống của mình để viết được cả ký hiệu toán học và nhạc lý.

Posted By Đỗ Lộc Sơn13:31

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

LY DỊ VÀ RƯỚC LỄ

Filled under:

Câu Hỏi
Thưa cha, con đã lập gia đình với bí tích hôn phốị Chúng con đã có hai con. Sống với nhau được hai năm đầu tốt đẹp, sau đó vợ con sinh nhiều tật xấụ Cuộc sống vợ chồng ngày càng trở nên căng thẳng. Chúng con thường xuyên cãi vã nhau nặng lờị Chịu đựng không nổi, con đã quyết định ra tòa ly dị. Đi xưng tội, cha sở cho con biết là con không được phép rước lễ. Con thắc mắc tại sao người ly dị lại ‘bị phạt’ không được rước lễ? Xin cho biết con phải làm gì để được rước lễ lạỉ
Từ .T. Hoàng
Trả Lời
Nói chung, người công giáo đã có bí tích hôn phối mà chủ trương ly dị là phạm trọng tội cưỡng lại lề luật của Thiên Chúạ Chúa Giêsu đã nói : “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly” (Mt 19:6). Dựa theo giáo huấn ấy của Phúc âm, Hội thánh ngăn cấm và ra hình phạt đối với ai tự ý xin ly dị trước tòa đời (GL. số 1118). Sự phạt vạ ấy là không được công khai rước lễ.
Việc ly dị mang hai chiều kích. Xét về phương diện nội tại (internal forum), người ly dị mắc tội trọng vì đã phạm đến 1 trong 2 đặc tính căn bản của bí tích hôn phối: sự bất khả phân ly. Xét về phương diện bên ngoài (external forum), người ấy ở trong tình trạng thường xuyên và công khai lỗi phạm lề luật Thiên Chúa và nêu gương xấu cho cộng đoàn Dân Chúạ
            Về mặt lương tâm nội tại, tội ấy có thể được tha thứ như mọi tội khác, nếu ta thành thật xưng tội và có thiện chí sửa đổi hoàn cảnh tội lỗị Nghĩa là, theo lương tâm, tội ấy không nhất thiết làm cho ta không được lãnh các bí tích. Tuy nhiên, về phương diện cộng đồng, người ấy bị coi là lỗi phạm công khai vì gây nên gương xấu cho Dân Chúa; do đó, để được lãnh nhận các bí tích cách công khai trong cộng đồng, cần phải giải tỏa gương xấu ấy trước.
            Áp dụng những nguyên tắc trên vào trường hợp của chị, xin đề nghị những việc cụ thể phải làm như sau:
            a) Tìm cách trao đổi để tha thứ và giải hòa lại với chồng. Như thế, ít nhất là trong tâm tư, hai người sẽ giải tỏa sự buồn bực, giận hờn, chia rẽ. Đây là điều kiện tối thiểu để hóa giải sự phân ly về mặt tâm lý đối với người phối ngẫụ Từ đó, chị mới có thể xưng tội và rước lễ. Nhưng việc lãnh nhận các bí tích này phải được thực hiện cách kín đáo, hầu không làm cho các tín hữu khác hiểu lầm và nên gương mù.
            b) Sau đó, để được công khai lãnh nhận các bí tích này như trước, vợ chồng chị cần phải tìm cách trở về tổ ấm, sum họp lạị Nếu không, cần phải có một hành động công khai như : một lời giải tỏa sự hờn giận, chia rẽ vợ chồng; một chứng cớ, hay một biểu tỏ sự hối lỗi về việc ly dị. Hoặc nữa, nếu thấy có lý do chính đáng trong lương tâm, chị có thể trình với một linh mục để giúp suy xét và làm thủ tục tiêu hôn theo giáo luật. Chỉ những điều kiện ấy mới đánh tan gương xấu trước mặt cộng đoàn Dân Chúa, và cho phép lương tâm Giáo hội ban ơn xá giải và Mình Thánh Chúa cho chị cách công nhiên.

Lm. Đa Minh Trần Quốc Bảo, DCCT

Posted By Đỗ Lộc Sơn17:14

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014

Có được phép ngưng việc trợ giúp dinh dưỡng và hydrat hóa đối với những người ở trong tình trạng thực vật kéo dài không?

Filled under:

Câu hỏi: Có một trường hợp “quyền được chết” xảy ra ở Virginia với những ý kiến trái chiều của các giáo sĩ Công Giáo và các nhà bình luận. Có được phép ngưng việc trợ giúp dinh dưỡng và hydrat hóa đối với những người ở trong tình trạng thực vật kéo dài không?
Trả lời: Tôi nghĩ thế nào cũng có tranh luận, John J.Paris cho là “được”, còn William E.May thì bảo là “không”.
Đây là trường hợp xảy ra với Hugh Finn, một tín hữu Công Giáo đến từ Louisville, bị đứt động mạch chủ trong một tai nạn xe hơi, khiến não của anh bị tổn thương nặng. Người ta gắn vào cơ thể anh ống dẫn để truyền thức ăn và thực hiện quá trình hydrat hóa.

Tôi chưa từng được biết về biểu đồ hóa học của trường hợp này, nhưng hầu như mọi người có những ý kiến khác nhau về nó. Tin tức cho biết, vợ anh muốn gỡ bỏ ống dẫn thức ăn, còn bố mẹ và anh chị em của người này thì không muốn như vậy. Vị Thống đốc của bang đã đưa vụ này lên Tòa Tối Cao của bang Virginia. Yêu cầu không gỡ ống truyền thức ăn của ông đã bị tòa án bác bỏ, người ta buộc phải ngưng trợ giúp hydrat hóa, và Hugh Finn đã chết 8 ngày sau đó.

Một vài khách viếng thăm và các thành viên trong gia đình đã làm cho vấn đề thêm phức tạp khi cho rằng ông Finn không rơi vào tình trạng thực vật kéo dài (PVS). Một vài tranh cãi trong số này có phần hơi vặt vãnh, nhưng đó là những lời xác nhận cá nhân của các nhân chứng. Biểu đồ và ghi nhận hóa học chắc chắn cũng đóng một vai trò quan trọng ở đây.

Tôi nghĩ là sẽ không có một câu trả lời đơn giản, độc nhất cho tất cả mọi trường hợp, như là luôn luôn đúng, hay luôn luôn sai. Những nguyên tắc và giả định chắc chắn phải được áp dụng cho những cá nhân và bệnh lý của một trường hợp nào đấy trên nền tảng ứng với từng trường hợp một.

Trong một số mục trước đây, tôi thường nói đến tuyên bố Dinh dưỡng và Hydrat hóa: Những suy tư mục vụ và luân lý của Ban Bảo Vệ Sự Sống thuộc Hội Đồng Giám Mục Mỹ. Đây là tài liệu hướng dẫn tuyệt vời và là một quy chiếu đáng tin cậy mà theo tôi, dù không cố gắng đưa ra giải đáp cho mọi trường hợp tiền lệ, nhưng nó đã cung cấp những nguyên tắc luân lý và giả định cần thiết để giải quyết các trường hợp riêng lẻ.

Có một câu hỏi cụ thể trong tuyên bố của các Giám Mục liên quan trực tiếp đến vấn đề này: “Những bệnh nhân rơi vào vô thức kéo dài có được xem là một trường hợp đặc biệt không?” (c.6). Không cần phải lặp lại nơi đây toàn bộ câu trả lời (nếu ghi ra toàn bộ câu trả lời thì chắc là không cần đọc hay nghiên cứu gì thêm nữa), hai điểm nhỏ cũng đủ để giúp cho việc bàn thảo rồi.

Trước hết, vấn đề thuật ngữ! Cái tên “thực vật” trong “tình trạng thực vật kéo dài” hàm chứa một ngụ ý tiêu cực nào đấy có thể khiến người ta quên rằng chúng ta đang nói về một người nào đó, một bệnh nhân bị rơi vào vô thức, chứ không phải vềmột cái gì đó, một loại thực vật thấp hơn con người. Vì thế, các giám mục đã sử dụng thuật ngữ “các bệnh nhân rơi vào vô thức kéo dài”, nghe có vẻ có tính con người hơn.

Thứ hai là giả định rất có lý của các giám mục: “Dưới ánh sáng của mối bận tâm này, chúng ta phải đưa ra những phán đoán có suy xét kỹ lưỡng rằng khi những tranh luận về tính hợp pháp trong luân lý Công Giáo vẫn còn tiếp diễn, thì những quyết định về các bệnh nhân này phải được hướng dẫn bởi một giả định ủng hộ việc trợ giúp y tế về dinh hưỡng và hydrat hóa” (s. 6).

Dĩ nhiên, một giả định thì cũng chỉ là một giả định. Các giám mục tiếp tục giải thích rằng giả định này có thể không thắng được thực tế, khi “chẳng có một hy vọng khả lý nào để duy trì sự sống” (chẳng hạn, khi không thể tránh được cái chết sắp xảy đến do nguyên nhân khác) hoặc điều ấy là quá liều lĩnh hoặc trút những gánh nặng quá lớn để có thể thực hiện việc điều trị “đặc biệt” xét về mặt luân lý như vậy.

Hơn nữa, các giám mục cũng làm rõ: “Không được rút bỏ những biện pháp như thế [phương pháp trợ giúp hydrat hóa] để gây ra cái chết” (s. 6). Vì thế, tất cả các trường hợp thì không được trả lời trước, nhưng một tiền giả định vững chắc thì có trước để dùng mà suy xét tất cả các trường hợp.

Thể chế dành cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe 
của Vatican (1995) cũng nói đến cùng một giả định như vậy khi giải thích nguyên tắc tỷ lệ thích đáng trong việc chữa trị: “Việc cung cấp thức ăn và chất lỏng, dù là nhân tạo, là một phần của việc điều trị bình thường trong mức độ phù hợp với bệnh nhân; ngừng cung cấp một cách không thích đáng chính là một kiểu làm chết êm dịu” (s. 120)

Những hướng dẫn tôn giáo và đạo đức của 
NCCB (Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Quốc Gia) (1994) cũng nói rõ: “Nên có một giả định ủng hộ việc cung cấp dinh dưỡng và hydrat hóa cho tất cả các bệnh nhân, bao gồm những bệnh nhân cần được trợ giúp y tế về dinh dưỡng và hydrat hóa miễn là nó giúp ích và không gây ra gánh nặng nào  liên quan đến bệnh nhân” (s. 58)

Vào ngày 2.10.1998, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói rõ về nguyên tắc giả định này và về tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Mỹ 1992, khi các ngài về Tòa Thánh nhân dịp ad limina, rằng:

Tuyên bố của ủy ban bảo vệ sự sống của Hội Đồng Giám Mục Mỹ, “Dinh dưỡng và Hydrat hóa”, nhấn mạnh rất đúng rằng việc cắt bỏ cung cấp dinh dưỡng và hydrat hóa nhằm gây ra cái chết cho một bệnh nhân phải bị loại trừ và, trong khi suy xét cẩn thật đến tất cả mọi yếu tố liên quan, giả định là phải ủng hộ việc cung cấp trợ giúp ý tế về dinh dưỡng và hydrat hóa cho tất cả các bệnh nhân cần những điều này. Không phân biệt được điều này sẽ là nguồn gốc gây ra hàng loạt những bất công cùng những đau khổ kèm theo, tác động đến những ai đang phải chịu khổ vì bệnh tật hay những suy yếu do tuổi già và những người thân yêu của họ.
Vì thế, từ cả thẩm quyền địa phương lẫn hoàn vũ, tất cả đều cho rằng cần phải có một giả định có nền tảng tốt là phải cung cấp trợ giúp hydrat hóa trừ phi không có một hy vọng khả lý nào cho thấy có thể duy trì sự sống hay chính việc cung cấp phương tiện này là quá liều lĩnh và là nặng gánh để được xem là đặc biệt xét về mặt luân lý trong một trường hợp cụ thể.

Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Mỹ cũng lưu ý đến những cuộc tranh luận trong nội bộ Công Giáo về điểm này. Dường như tất cả các tác giả Công Giáo đều đồng ý về những nguyên tắc cơ bản, nhưng họ có quan điểm khác nhau cách nào đó về việc áp dụng chúng cho từng trường hợp cụ thể. Từ những gì tôi đọc được, có một số tranh luận không chỉ về việc áp dụng, nhưng là về những bất đồng thực sự trong nguyên tắc. Vì thế, đôi khi đó không phải là một cuộc tranh luận về một “hy vọng khả lý duy trì sự sống”, hay về việc “những liều lĩnh và gánh nặng” là hơi quá để có thể được xem là đặc biệt xét về mặt luân lý và vì thế không là điều bắt buộc. Đúng hơn, có một số định nghĩa và nguyên tắc thực sự có vấn đề ở đây, và chính chúng đã chủ yếu gây ra điều tranh cãi. Có nhiều khả năng người ta nại đến vấn đề liên quan đến hydrat hóa, phụ thuộc vào việc bạn định nghĩa thế nào về nó.

Tôi nghĩ, chính Daniel Callahan là người đầu tiên nói về thuật ngữ “những cá nhân chịu đựng kiên cường về sinh học” và những người đó là ai, ngoại trừ những người đang chết một cách từ từ. Linh mục Richard McCormick đã viết về “sự tồn tại sinh lý học đơn thuần”, nghĩa là, theo tôi hiểu, một thân xác chỉ biết thở chứ không biết nói. Hai mươi năm trước, McCormick đã định nghĩa, một sự tự lập bảo toàn tốt bất kỳ khả năng nào cho kinh nghiệm ý thức là “thuyết sức sống”, và việc tiếp tục một sự sống chỉ đơn thuần vật lý thì không mang lại lợi ích con người nào. Linh mục Kevin O’Rourke thì viết rằng: “Nếu chức năng nhận thức và tình cảm không thể được phục hồi thì có thể từ chối hoặc gỡ bỏ việc cung cấp dinh dưỡng và hydrat hóa.” Linh mục Paris trong bài viết America  nói trên cũng nói về việc phục hồi một sự hiện hữu có chức năng nhận thức.

Tất cả những định nghĩa trên đã làm tôi nghĩ đến “thuyết nhị nguyên”, vốn hoàn toàn phân tách hợp thức xác-hồn để rồi xem sự hiện hữu thuần “thể lý” không thực sự được xem là sự hiện hữu của cá nhân hay mang tính con người. Một khi định nghĩa như thế thì vấn đề hydrat hóa đã được giải đáp rồi.

Một vài người có thể sẽ hỏi “Điểm nhắm tới ở đây là gì?” Mục đích của việc cung cấp thức ăn và hydrat cho những cơ thể thuần vậy lý là gì khi nó chẳng đưa đến một lợi ích mang tính con người nào? Tôi bỗng nhớ đến tư tưởng nhân chủng học của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II được trình bày súc tích trong Thể chế dành cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe của Vatican: “Cái gì là và cái gì xảy ra về mặt sinh học thì không bao giờ là mơ hồ. Ngược lại, nó có một sự liên đới mang tính luân lý; nó là một mệnh lệnh ngụ ý nhắm đến hành động. Cơ thể đích thực là một thực tại nhân vị, là dấu chỉ và là nơi của những tương quan với người khác, với Chúa và với thế giới” (s. 41)

Cơ thể đích thực là một thực tại nhân vị! Sự sống thể lý của con người là một điều tốt đẹp của chính người đó, chứ không chỉ là một điều tốt đẹp dành cho những mục đích khác. Sự sống thể lý là một điều tốt đẹp tự bản chất của chính người đó, chứ không chỉ là một điều tốt đẹp mang tính công cụ cho những kế hoạch khác. Trong học thuyết nền tảng của Công Giáo, bạn là linh hồn của thân xác mình cũng như là thân xác của linh hồn mình. Cả hai không phân biệt trừ khi bạn chết.

Một người anh em có thể bị suy giảm chức năng “nhận thức-tình cảm”; anh ta có thể không đủ  “khả năng” lý trí hay tương quan một cách sâu sắc; thậm chí từ lúc mới sinh, IQ của anh ta đã rất ít, rất thấp hay trống trơn, nhưng linh hồn của anh ta thì không ít, không thấp, không trống trơn. Anh ta là một trong số chúng ta, dù các chức năng của anh ta có kém cỏi và nghèo nàn đến đâu. Nếu không nghĩ như thế thì khi xếp loại, anh ta sẽ được xác định nằm bên ngoài phạm vi con người, để vào trong cõi nào đấy thấp hơn con người.

Dưới cái hiểu Công Giáo, chúng ta phải phân biệt giữa bệnh nhân đang chết và bệnh nhân không-đang-chết. Vì thế, “khi cái chết không thể tránh khỏi đang xảy đến,” có thể chọn lựa hầu hết tất cả những phương pháp chữa trị, trong mức độ việc chăm sóc bình thường cho bệnh nhân không bị gián đoạn (CDF, Tuyên Bố về Trợ Tử, số 4)

Từ những gì tôi đọc, dường như Hugh Finn không phải là một bệnh nhân đang chết, và chắc chắn không phải là một bệnh nhân mà cái chết không thể tránh khỏi đang xảy đến. Dĩ nhiên, một khi trợ giúp dinh dưỡng và chất lỏng bị gỡ bỏ thì anh ta sẽ trở thành một bệnh nhân đang chết, vì những gì đang được sắp xếp là một chuỗi những sự kiện được hiểu như là đang đối phó với cái chết.

Nhưng đã nói ở trên, các yếu tố trị liệu và y tế có thể ảnh hưởng đến phán đoán, nhưng điều tôi kịch liệt loại bỏ là tiêu chí “nhân thức-tình cảm” vốn thực sự gây ra vấn đề cho các bệnh nhân rơi vào tình trạng thực vật kéo dài và bất cứ những bệnh nhân mắc chứng bệnh kinh niên mà khả năng nhận thức bị suy yếu. Tôi tin rằng điều này không chỉ là một sự khác biệt trong việc áp dụng nhưng là một sự khác biệt trong nguyên tắc.

Sự sống con người là một điều tốt đẹp của chính con người – một sự tốt đẹp nhân vị từ bản chất, chứ không phải là một sự tốt đẹp mang tính phương tiện. Chân lý này không ngừng được lặp đi lặp lại trong Thông Điệp Evangelium Vitae. Đây không phải là một “thuyết sức sống” để bảo toàn hay kéo dài sự sống bằng các biện pháp có thể trong mỗi trường hợp bệnh lý. Không một tôn giáo nào ở Phương Tây quy định điều này, kể cả Công Giáo. Nhưng thách đố trong một trường hợp cụ thể là xem xét những yếu tố cá nhân và bệnh án thực tế có thể làm cho một phương tiện trở nên “đặc biệt”, chứ không kéo toàn bộ vấn đề xuống chức năng nhận thức-tình cảm hay khả năng tương quan khi mà, theo định nghĩa, việc suy yếu về tâm thần đang xảy ra.

Việc đánh giá từng trường hợp là một thách đố đòi hỏi sự nỗ lực và có khi là rất khó khăn nhưng phải đối diện với thách đố ấy để những bệnh nhân mắc các chứng bệnh kinh niên, những người bị suy yếu về tâm thần không bị loại trừ, và để những người này không bị đối xử dựa trên những định nghĩa dễ thay đổi nhưng được đối xử trên thực tế bệnh lý của mình.

(trích trong SMITH, Msgr. WILLIAM B,. Modern Moral Problems: Trustworthy Answers to Your Tough Questions, edited by Donald Haggerty, Ignatius Press, San Francisco, 2012, tr 62)


Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Posted By Đỗ Lộc Sơn14:43