Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Lời sống hôm nay 1/11/2014

Filled under:

01/11/14 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 30 TN
Các thánh nam nữ Mt 5,1-12a
TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA KI-TÔ
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,3)
Suy niệm: Nhà văn nổi tiếng người Anh S. Maugham cho rằng chỉ có các vị thánh và nhà thơ mới có thể tưới nước cho vỉa hè tráng nhựa trong tin tưởng và thấy trước phần thưởng cho lao nhọc của mình sẽ là những cánh hoa loa kèn xinh xắn. Các thánh là những người dám mơ, mơ ước một cái gì siêu vượt khỏi cái bình thường của cuộc sống hằng ngày: trở nên giống Đức Ki-tô qua những giá trị của Tin Mừng hay Tám Mối Phúc Thật. Những gì con người cho là khổ, là dại, là thiệt thân, như khó nghèo, sầu khổ, hiền lành, nên người công chính, xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì sống công chính, thì các ngài vui lòng đón nhận vì tin rằng rốt cuộc, phần thưởng cho mình sẽ là chính Chúa, không một phần thưởng hay niềm vui nào của trần thế sánh bằng.
Mời Bạn: “Thiên Chúa tạo dựng mọi sự từ hư không. Chắc chắn rồi, nhưng Ngài còn làm một điều tuyệt vời hơn nữa: tạo ra những vị thánh từ các tội nhân” (Triết gia S. Kierkegaard). Hãy để Thiên Chúa làm điều kỳ diệu ấy trong cuộc đời bạn bằng nỗ lực sống Tám Mối Phúc Thật. Bạn hãy chọn một mối phúc thích hợp nhất với mình và bắt đầu quá trình từ tội nhân trở thành thánh nhân từ mối phúc ấy.
Sống Lời Chúa: Xác tín dù là tội nhân, tôi cũng có thể trở thành thánh nhân qua ơn Chúa và nỗ lực của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã tin tưởng mời gọi chúng con trở nên thánh. Xin cho chúng con nên thánh nhờ để cho Chúa sống trong chúng con, và nên giống Chúa nhờ noi gương Chúa qua việc cố gắng thực hành Tám Mối Phúc Thật mỗi ngày. Amen.

Ngày 01 tháng 11
LỄ CÁC THÁNH
Giáo hội như người mẹ hiền hàng ngày mừng lễ các con cái Người. Nhưng vì đoàn con được hưởng phúc trên trời nhiều quá, Giáo hội không thể không biết hết được; vì thế, Giáo hội hằng năm chọn một ngày mừng chung tất cả các con cái, để không ai bị lãng quên hoặc bỏ sót, đồng thời cũng để khơi lên trong tâm hồn con cái còn ở trần gian những niềm hân hoan vui sướng và lòng can trường khát mong về quê trời là nơi tất cả những anh chị em Chúa đã gọi về trước đang chiêm ngưỡng thánh nhan Ngài.
Từ thế kỷ thứ IV Giáo hội Đông phương đã có một ngày lễ kính chung tất cả các thánh tử đạo khắp hoàn cầu, được tổ chức vào những ngày khác nhau tùy từng địa phương. Về sau Giáo hội Bizantina đã đổi ngày lễ này thành lễ các thánh, ở Tây phương ngày lễ các thánh có muộn hơn và có một lịch sử khá phức tạp.
Để tóm tắt tích ngày lễ các thánh, chúng ta nên biết rằng: Giáo hội đã thánh hóa một ngày của lương dân và thay thế bằng ngày lễ kính các thánh. Xưa ở Rôma có một đền thờ rất nguy nga, lộng lẫy của những người lương dân gọi là vạn thần miếu. Ở đây họ thờ đủ tất cả mọi thứ thần minh, ngẫu tượng. Quân Rôma trong thời kỳ đi chinh phạt những nước láng giềng nhỏ bé để lập đế quốc, đi đến đâu, họ cũng thu nhận thần các nước ấy đem về chính quốc lập đền mà thờ, bất kể thần lành thần dữ. Quãng thế kỷ VII, Hoàng đế Phoca (602-609) đã dâng vạn thần miếu cho Đức Giáo Hoàng Bônifaciô IV, Đức Giáo Hoàng đã biến đổi đền thờ đó thành một nhà thờ cung hiến cho Đức Mẹ trọn đời đồng trinh và tất cả các thánh tử đạo. Đồng thời Đức Giáo Hoàng truyền hằng năm phải dâng lễ kính các thánh vào chính ngày đã cung hiến đền thờ ấy ngày 13 tháng 5. Trước chỉ có giáo hữu Rôma mừng lễ ấy thôi, nhưng sau Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IV đã truyền cho cả Giáo hội phải dâng lễ kính các thánh nam nữ trên trời ngày 01 tháng 11 hằng năm, cũng là để thánh hóa một ngày lễ vô cùng long trọng của nhiều dân tộc thời ấy.
Để mừng lễ các thánh cách sốt sắng, chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng những vị chiến sĩ nước trời đã chiến thắng tình dục, ma quỷ, thế gian bằng những chiến công có khi rất âm thầm nhưng đã được thêu dệt bằng lòng mến Chúa, yêu người và từ bỏ mình đến độ anh hùng. "Tôi thấy đoàn người đông vô kể, thuộc mọi quốc gia, chủng tộc, ngôn ngữ, mình mặc áo trắng, tay cầm ngành lá chiến thắng, miệng hoan hô chúc tụng Thiên Chúa".
Đối với chúng ta, ngày lễ các thánh phải là ngày lễ của gia đình, vì hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta tưởng nhớ đến tất cả những người thân yêu Chúa đã gọi về trước, và tất cả những linh hồn chúng ta tưởng nhớ trong thánh lễ mỗi buổi sáng. Họ là những người đã cương quyết theo Chúa bằng con đường tám mối phúc thật. Chúng ta tưởng nhớ đến tất cả những bạn hữu đã cùng chúng ta làm trọn bổn phận của người con ngoan của Chúa và Giáo hội, trong gia đình ngoài xã hội, ở thành thị náo nhiệt cũng như ở thôn quê hẻo lánh, trên ghế nhà trường cũng như ở nơi xưởng máy, hay nơi chợ búa ồn ào… Những người bạn đó ngày nay không còn nữa. Là người con ngoan của Giáo hội chúng ta hãy hợp với Giáo hội để dâng lời chúc tụng những linh hồn thánh thiện ấy và ước chi các ngài ban cho chúng ta chính nghị lực của các ngài, để chúng ta vững mạnh trên con đường các ngài đã đi trước.
Ngày hôm nay cũng là ngày lễ của hết thảy chúng ta, những con người đang sống trong ơn nghĩa Chúa, bởi vì tất cả những linh hồn sạch tội trọng đều được gọi là thánh theo một ý nghĩa rộng rãi của danh từ.
Nhìn lên các thánh, chúng ta hãy tâm niệm lại lời của Chúa: "Ta mang lửa xuống thế gian, Ta ước mong gì nếu không là mong cho lửa ấy cháy bùng lên". Lửa đó chính là lửa mến Chúa yêu người, ngọn lửa đã làm cho tâm hồn các thánh nóng nảy thi hành mệnh lệnh của Chúa: "Các con hãy nên toàn thiện như Cha các con ở trên trời là Đấng Thánh". Đã lần nào chúng ta thấy sốt ruột khi đọc lời thánh Phaolô: "Thánh ý Thiên Chúa là anh em hãy nên thánh". Nên thánh là bổn phận của chúng ta phải chu toàn. Nhìn lên các thánh, chúng ta lại được dịp chiêm ngưỡng sự thánh thiện của Thiên Chúa. Sự thánh thiện nơi các thánh chỉ là phản ảnh phần nào sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa. Mỗi vị thánh chỉ bộc lộ một phần rất nhỏ sự thánh thiện của Chúa.
Các thánh là những bức gương lôi cuốn cho hết thảy mỗi người chúng ta. Các ngài đã thuật lại đời sống Chúa Kitô, không phải bằng nét bút nhưng bằng đời sống thực tế của con người. Đời sống Chúa Kitô đã được các thánh thích nghi với mọi thời đại, xứ sở, hoàn cảnh, mọi hạng tuổi và tính tình. Đời sống các thánh chính là đời sống Chúa Kitô được trình bày trong muôn vàn trạng thái cụ thể. Chúng ta học được nơi các thánh gương thánh thiện của một trẻ thơ măng sữa vừa thấy ánh sáng mặt trời, đã vội vã vĩnh biệt trần gian, của người giầu kẻ nghèo, của nhà bác học hay của bác thợ thuyền, bác nông phu quê mùa chất phác, của đấng trượng phụ hay của một nhi nữ chân yếu tay mềm. Nhìn vào đoàn thể các thánh, chúng ta nhớ lại lời thánh Âutinh: "Ông kia bà nọ nên thánh, sao tôi lại không?" Những tấm gương sống động ấy làm chúng ta phấn khởi. Những khuyết điểm trong đời sống các thánh cũng có thể khích lệ ta. Nhìn thấy các ngài chiến đấu với những yếu hèn của con người còn sống nơi dương thế, chúng ta cảm thấy các ngài cũng là người như chúng ta, và bởi đấy chúng ta không bao giờ được thất vọng trong sự nghiệp nên thánh.
Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại một điểm trong kinh Tin kính: "Tôi tin các thánh cùng thông công". Những vinh hiển hay những đau khổ của các thánh là những vinh hiển và đau khổ của chúng ta. Lúc sinh thời, lời cầu nguyện của các thánh còn có hiệu nghiệm, lẽ nào lúc các ngài được vinh hiển, lời cầu nguyện của các ngài lại kém đi được? Như những chi thể trong thân thể mầu nhiệm, các thánh sẽ là những vị nâng đỡ, dìu dắt chúng ta trên bước đường về quê trời. Chúng ta hãy kính cẩn nghiêng mình nhớ đến các thánh, xin các ngài ban cho chúng ta chút nghị lực để bước theo con đường các ngài đã đi, để sau mấy chục năm sống ở trần gian, chúng ta được gia nhập đoàn thể các thánh mà thánh Gioan đã chiêm ngắm trong sách Khải huyền. Để được như thế, chúng ta hãy nhớ luôn rằng: "Tôi chỉ là thánh trên thiên đàng một khi đã là thánh dưới trần gian, và nên thánh đó là nghĩa vụ buộc tất cả mọi người ".

Posted By Đỗ Lộc Sơn17:54

Định Mệnh Của Chúng Ta: Ở Thiên Đàng Hay Hỏa Ngục

Filled under:

Chúng ta hãy chọn lựa điều thiện cùng với sự trợ giúp của Các Bí Tích và sự cầu nguyện.

Ngay từ khởi đầu  ở trong sách Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết có hai con đường để chọn lựa: đó là đường dẫn đến sự sống, hoặc đường đưa đến sự chết. Đường dẫn đến sự sống là Mến Chúa, Yêu Người và Tuân Giữ Các Giới Răn của Chúa. Đường đưa đến sự chết là phá bỏ huấn giới của Chúa, sống trong tội lỗi và tuyệt tình với Chúa.
Tình hình thế giới hiện nay ngập đầy mọi hỗn loạn, làm cho chúng ta ai nấy hầu như cũng bị quay cuồng đi đứng khó khăn trên đường ngay chính và tuân giữ theo các huấn giới của Người, hoặc ngay cả khi chúng ta biết là cần phải làm gì.  Một trong những di sản mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Paulô II để lại, đó là cuốn Sách Giáo Lý Công Giáo được ban hành vào năm 1992, toàn bộ mọi đúc kết trong đó ai nấy cần phải biết để còn được cứu thoát.  Đó là đề tài vô cùng quan trọng, vì số phận đời đời của chúng ta đang bị đe dọa: một là được hoan hưởng hạnh phúc đời đời cùng với Chúa trên Thiên Đàng, hoặc chịu khốn nạn đời đời ở hỏa ngục, đoạn tuyệt với Thiên Chúa.
Những bài giáo lý từ trong sách Giáo Lý được ban hành năm 1992 này, đã được Đức Giáo Hoàng hưu trí Bênêđíctô 16 đúc kết thành từng câu theo lối hỏi đáp rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và hàm chứa đầy đủ hết mọi điều cần thiết cho hết mọi đề tài thuộc đức tin của Hội Thánh, mà chúng ta được biết đó là cuốn "Toát Yếu Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo", được ngài ban hành vào năm 2005. Dưới đây là trích đoạn một số những câu hỏi đáp tương ứng từ trong cuốn giáo lý tóm gọn nàỵ  (Bản Dịch Giáo Lý việt ngữ của Đức Cha Paulô Bùi Văn Đọc)
207.     Đời sống vĩnh cửu là gì ?
Đời sống vĩnh cửu là đời sống bắt đầu ngay sau khi chết. Đời sống này không có kết thúc. Mỗi người, khi bắt đầu bước vào đời sống vĩnh cửu, sẽ phải nhận một cuộc phán xét riêng do chính Đức Kitô, vị Thẩm Phán của kẻ sống và kẻ chết; đời sống này sẽ được đóng ấn trong cuộc phán xét chung.  
208.     Phán xét riêng là gì ?
Là cuộc phán xét thưởng phạt tức khắc mà mỗi người, ngay sau khi chết, phải lãnh nhận từ Thiên Chúa trong linh hồn bất tử của mình, liên quan đến đức tin và các việc làm của mình. Sự phân định thưởng phạt này gồm có việc được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, tức khắc hoặc sau một cuộc thanh luyện thích hợp, hay là phải chịu phạt muôn đời trong hỏa ngục.  
209.  “Thiên đàng” là gì ?
 “Thiên đàng” là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên thần và các thánh. Như vậy các ngài tạo thành Hội thánh thiên quốc, nơi các ngài được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1 Cr 13,12); các ngài sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng tạ 
Sự sống thật và theo bản chất cốt tại điều này : Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, đổ tràn hồng ân thiên quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ lòng nhân hậu của Ngài, cả chúng ta nữa, chúng ta đã lãnh nhận lời hứa không thể mai một là được sống đời đời” (thánh Cyrillô thành Giêrusalem).    
210.  Luyện ngục là gì ?
Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng, dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng.  
211.  Bằng cách nào chúng ta có thể giúp đỡ các linh hồn đang được thanh luyện nơi luyện ngục ?
Nhờ sự “các thánh thông công” các tín hữu còn lữ hành trên trần gian, có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục, bằng cách dâng lời cầu khẩn, đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc bố thí,  ân xá và những việc hãm mình để cầu cho họ.  
212.     Hoả ngục hệ tại điều gì ?
Hoả ngục hệ tại án phạt đời đời dành cho những ai, do sự lựa chọn tự do của mình, chết trong tình trạng có tội trọng. Hình phạt chính yếu của hỏa ngục là xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa. Chỉ nơi Ngài con người mới có sự sống và hạnh phúc; con người được tạo dựng là để hưởng những điều ấy và họ luôn khao khát những điều ấy. Đức Kitô diễn tả thực tại hoả ngục bằng những lời này : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,41). 
213.     Thiên Chúa là Đấng nhân hậu vô biên, làm sao Ngài lại để có hỏa ngục ?
Thiên Chúa muốn “cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3,9), nhưng vì Ngài đã tạo dựng con người có tự do và có trách nhiệm, nên Ngài tôn trọng các quyết định của họ. Vì thế, nếu cho đến lúc chết, con người vẫn còn nằm trong tội trọng, từ chối tình yêu nhân từ của Thiên Chúa, thì chính họ, với sự tự lập hoàn toàn, tự ý loại mình ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúạ 
214.     Phán xét cuối cùng hệ tại điều gì  ?
Sự phán xét cuối cùng (phán xét chung) hệ tại sự phán quyết về cuộc sống hạnh phúc hay án phạt đời đời, mà Chúa Giêsu, khi Người trở lại như vị Thẩm phán của kẻ sống và kẻ chết, sẽ tuyên bố cho “những người công chính cũng như kẻ có tội” (Cv 24,15), qui tụ tất cả trước mặt Người. Sau cuộc phát xét cuối cùng, thân xác sống lại sẽ tham dự vào sự thưởng phạt mà linh hồn đã lãnh nhận trong cuộc phán xét riêng. 
215.     Khi nào cuộc phán xét này sẽ xảy ra ?
Cuộc phán xét này sẽ xảy ra vào ngày tận thế mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được ngày nào giờ nàọ 
391.  Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải làm gì ?
Để có thể đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải nhìn nhận và thống hối các tội lỗi của mình. Chính Thiên Chúa, qua Lời và Thánh Thần của Ngài, giúp chúng ta thấy rõ tội lỗi của mình, ban cho chúng ta lương tâm ngay thẳng và niềm hy vọng vào ơn tha thứ.   
392.  Tội là gì ?
Tội là “một lời nói, hành vi hoặc ước muốn trái nghịch với Luật vĩnh cửu” (thánh Augustinô). Tội là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, không vâng phục tình yêu của Người. Tội gây thương tích cho bản tính của con người và làm thương tổn đến tương quan giữa con người. Qua cuộc Tử nạn, Đức Kitô cho thấy rõ ràng tích chất trầm trọng của tội và đã chiến thắng nó bằng lòng thương xót của Người.  
393.  Có nhiều loại tội hay không ?
Có rất nhiều loại tội. Các tội có thể được phân biệt theo đối tượng của chúng hoặc theo các nhân đức hay các giới răn, mà tội đối nghịch. Người ta còn có thể phân biệt tội theo tương quan trực tiếp của chúng với Thiên Chúa, với tha nhân hoặc với chính bản thân. Ngoài ra, người ta cũng có thể phân biệt tội trong tư  tưởng, lời nói, việc làm và việc bỏ sót không làm.  
394.  Người ta phân biệt tội theo tính chất trầm trọng của chúng như thế nào ?
Người ta phân biệt tội trọng và tội nhẹ. 
395.  Khi nào người ta phạm tội trọng ?
Người ta phạm tội trọng khi cùng lúc có chất liệu nặng, ý thức đầy đủ, và tự ý ưng thuận. Tội trọng phá huỷ đức mến trong chúng ta, cướp đi ân sủng thánh hoá và dẫn chúng ta đến cái chết đời đời trong hỏa ngục nếu không sám hối. Tội trọng được tha thứ cách thông thường nhờ Bí tích Rửa tội và Bí tích Thống hối, còn gọi là Bí tích Hòa giải. 
396.  Khi nào người ta phạm tội nhẹ ?
Khác biệt cách triệt để với tội trọng, người ta phạm tội nhẹ khi chất liệu là nhẹ, hoặc thậm chí chất liệu là nặng, nhưng không có đầy đủ ý thức hay không hoàn toàn ưng thuận. Tội nhẹ không cắt đứt tương quan với Thiên Chúa, nhưng làm suy yếu đức mến. Tội nhẹ biểu lộ lòng quyến luyến lệch lạc đối với của cải trần thế, ngăn cản sự tiến triển của linh hồn trong việc thực hành nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý. Tội nhẹ đáng chịu những hình phạt tạm thời để thanh luyện.                 
397.  Tội sinh sôi nảy nở nơi chúng ta như thế nào ?
Tội tạo nên xu hướng về tội, và do việc lặp đi lặp lại cùng một hành vi, sẽ tạo nên thói xấụ 
398.  Các thói xấu là gì ?
Đối nghịch với các nhân đức, các thói xấu là những thói quen lệch lạc làm mờ tối lương tâm và hướng chiều về điều xấu. Các thói xấu có thể ghép lại thành bảy mối tội đầu : kiêu ngạo, hà tiện, ganh tị, nóng giận, dâm dục, mê ăn uống, và lười biếng. 
399.  Chúng ta có trách nhiệm gì đối với tội người khác không ?
Chúng ta có trách nhiệm đối với tội của người khác, khi chúng ta cộng tác cách có lỗi vào tội đó. 
400.  Các cơ cấu của tội là gì ?

Các cơ cấu của tội là những hoàn cảnh xã hội hay những tổ chức nghịch lại với Luật Thiên Chúa; chúng là những biểu lộ và là hậu quả của các tội cá nhân.  

Posted By Đỗ Lộc Sơn17:42

Ơn Đại xá và Tiểu xá trong Giáo hội Công giáo

Filled under:

Hỏi: Trong tuần lễ đầu của Tháng cu cho các Tín hữu đã qua đời, Hội Thánh có ban ơn Đại xá và Tiểu xá cho những ai viếng nhà thờ và nghĩa địa. Xin cho biết ý nghĩa và cách thức được lãnh nhận các ân xá như thế nào?
HUY TRƯỜNG,Bình Hưng Hòa, Q.Bình Tân TP.HCM
Đáp: Theo Tông hiến “Học thuyết về các ân xá – Indulgentiarum doctrina” của Đức Giáo hoàng Phaolô VI công bố ngày 1.1.1967, có hai loại ân xá trong Giáo hội Công giáo: Đại xá (còn gọi là Toàn xá, Indulgence plénière) và Tiểu xá (indul- gence partielle). Việc phân loại này xét theo việc tha toàn bộ hay một phần hình phạt của tội. Quyền ban ân xá này Giáo hội nhận được từ nơi Đức Kitô, và ban ân xá mục đích để tha các hình phạt đáng chịu vì đã phạm tội.
Tông hiến của Đức Phaolô VI xác định việc lãnh nhận các ân xá như sau:
1. Mọi tín hữu đều có thể hưởng ân xá cho mình, hoặc nhường cho các linh hồn trong luyện ngục.
2. Ơn tiểu xá được ban khi người tín hữu thực hành một số việc lành phúc đức do Hội Thanh quy định, với điều kiện thật lòng ăn năn và từ bỏ các tội đã phạm.
3. Mỗi ngày chỉ nhận được một ơn đại xá mà thôi, trừ trường hợp nguy tử. Để lãnh ơn đại xá trong trường hợp nguy tử, người hấp hối cầm thánh giá Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Người.
4. Những điều kiện thông thường để lãnh ơn đại xá: Thực hiện một công việc do Giáo hội chỉ định, xưng tội riêng, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng.
5. Có thể xưng tội riêng trước hoặc sau ngày so với lúc thực hiện công việc do Hội Thánh chỉ định. Tuy nhiên, để được hưởng ơn đại xá cần phải rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng đúng vào ngày được chỉ định.
6. Có thể xưng tội riêng một lần để lãnh nhiều ơn đại xá, tuy nhiên mỗi lần rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng chỉ nhận được một ơn đại xá mà thôi.
7. Để hoàn tất điều kiện “cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng, người tín hữu sẽ đọc: một kinh Lạy Cha và một kinh Kính Mừng (hoặc một kinh nào khác do lòng sùng kính riêng), đồng thời hướng ý cầu nguyện về Đức Giáo hoàng.
8. Bản quyền giáo phận có thể cho phép tín hữu lãnh ơn đại xá khi chưa xưng tội riêng hoặc chưa thể rước lễ vì những lý do bất khả kháng. Tuy nhiên, người này phải dốc lòng ăn năn tội, cùng có ý hướng xưng tội và rước lễ sớm nhất có thể.
9. Người tín hữu có thể lãnh ơn đại xá khi đi viếng bất cứ nhà thờ nào, kể cả các nhà nguyện vào ngày 2 tháng 11, ơn đại xá này được dành cho các linh hồn nơi luyện ngục. Ngoài ra, các tín hữu có thể lãnh ơn đại xá 2 lần nữa trong một năm khi đi viếng nhà thờ giáo xứ của mình: Một lần vào ngày lễ Bổn mạng. Một lần vào ngày 2 tháng 8 (ngày ân xá của nhà thờ Portioncule) hoặc ngày do Bản quyền giáo phận chỉ định. Cũng có thể lãnh ơn đại xá vào Chúa nhật trước hay Chúa nhật sau hai ngày trên, với sự chấp thuận của Bản quyền giáo phận.
12. Khi Bản quyền giáo phận chỉ định đi viếng một nhà thờ hay một trung tâm hành hương để lãnh ơn đại xá, thì người tín hữu sẽ đọc: một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính lúc viếng nhà thờ này như điều kiện để lãnh ơn đại xá.
13. Khi người tín hữu dùng một đồ vật thánh đã được linh mục làm phép như tượng chịu nạn, thánh giá, ảnh đeo, tràng hạt,… sẽ nhận được ơn tiểu xá. Còn nếu các đồ vật này được Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục làm phép, thì sẽ nhận được thêm một ơn đại xá vào ngày lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô (ngày 29 tháng 6) với điều kiện phải đọc một kinh Tin Kính vào ngày lễ này.
14. Mỗi ngày chỉ nhận được một ơn đại xá mà thôi.
15. Các ơn đại xá chỉ được ban vào các ngày được Tòa Thánh xác định, theo lợi ích chung của Giáo hội hoàn vũ, hoặc do lời thỉnh cầu của Bề trên Thượng cấp hội dòng, hay của Đấng Bản quyền địa phương.

Posted By Đỗ Lộc Sơn17:35

Phúc thay… – Suy niệm ngày

Filled under:

Ngày 1 tháng 11 năm 2014
Lễ các Thánh Nam Nữ
PHÚC THAY
I. LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. “Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời”.
II. SUY NIỆM:
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta cử hành trọng thể Thánh Lễ tôn kính các Thánh Nam Nữ, các thánh đã được Giáo Hội tôn phong và tất cả những người đang được phúc chia sẻ sự sống viên mãn của Thiên Chúa, cùng với Đức Ki-tô, trong đó, chắc chắn có ông bà tổ tiên và những người thân yêu của chúng ta trong đức tin, trong gia đình và trong đời sống dâng hiến. Bởi vì sách Khải Huyền nói về các thánh là:
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. (Kh 7, 9)
Vì thế, chúng ta xác tín rằng, các ngài hằng ngày vẫn đang cầu bầu và đồng hành với chúng ta trên con đường hành hương tiến về nơi hằng phúc, để cùng xum họp với các ngài và những người thân yêu của chúng ta trong cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Và thật là ý nghĩa, khi trong Thánh Lễ mừng kính trọng thể các Thánh Nam Nữ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại Lời Chúa công bố Các Mối Phúc. Bởi vì đó là con đường nên thánh, nghĩa là trở nên một với Đức Ki-tô, mà các thánh đã đi và chúng ta được mời gọi bước đi trên cùng một con đường hôm nay.
1. Khung cảnh (c. 1-2)
“Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần. Người mở miệng dạy họ”. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh đầy ý nghĩa này:
- Xưa kia trên núi Sinai, Thiên Chúa ban Lời của Ngài qua trung gian Mô-se; và nhờ Lời của Ngài, một đám đông ô hợp, vô danh và nhỏ bé, trở thành dân riêng của Chúa: Thiên Chúa trở thành Đức Chúa của dân, dân trở thành dân tộc được tuyển chọn của Đức Chúa.
- Còn ở đây, Thiên Chúa ban Lời của Ngài qua Đức Giê-su, hiện thân của Lời Chúa, bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Và Lời của Người được ban cho tất cả mọi người, để qui tụ thành Dân Mới của Thiên Chúa, được tuyển chọn nhờ, với và trong Người.
Chúng ta hãy so sánh, khám phá và cảm nếm sự khác biệt: Mô-sê ban lời đến từ Đức Chúa, còn Đức Giê-su ban lời nhân danh chính ngôi vị của mình. Trong những lời này của Tám Mối Phúc và của cả Bài Giảng Trên Núi (Mt 5-7), Đức Giêsu đặt chủ thể của mình vào chủ thể của Đấng ban Lời ở núi Sinai, Người bảy tỏ căn tính thần linh của mình. Như thế, từ núi này đến núi kia, biến cố mà Đức Giêsu tạo ra thật là lớn lao. Vì thế, chúng ta được mời gọi chú ý cách đặc biệt đến hành vi nói của Chúa: “Người mở miệng dạy họ, Ngài nói”. Hãy để cho đôi mắt và đôi tai của chúng ta dừng lại chiêm ngắm và đi vào chiều sâu của biến cố trung tâm này: “Ngài mở miệng dạy họ, Ngài nói”.
Biến cố này hoàn toàn khớp với dụ ngôn Người Gieo Giống: Người gieo giống đi ra gieo giống. Xin được hiểu và kinh nghiệm được trong tôi biến cố: nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa ra khỏi mình để thông truyền chính Ngài cho tôi qua lời nói. Bằng Lời, Ngài đã sáng tạo nên con người chúng ta có khả năng thông truyền bằng lời, và bây giờ, Ngài khởi đi từ cái chúng là, một tạo vật biết nói biết nghe, để đến gặp gỡ chúng ta. Chúng ta cũng được mời gọi đi cùng con đường lời nói để đi đến với Ngài: trong cầu nguyện và nhất là trong thời gian tĩnh tâm, chúng ta được mời gọi dành nhiều thời gian để lắng nghe Lời Chúa và sau đó tâm sự với Ngài, như một ngôi vị sống động và gần gũi.
Nơi Đức Giê-su Ngôi Lời của Thiên Chúa, lời và hiện hữu là một: Ngài nói điều Ngài là và Chúa là điều Ngài nói trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Xin cho điều chúng ta nói với Chúa và với nhau là chính chúng ta. 
2. Tám mối phúc (c. 3-10)
a. Thân phận con người
Trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, lời giảng dạy của Đức Giê-su được tổng hợp thành 5 bài giảng lớn, và bài giảng đầu tiên là Bài Giảng Trên Núi. Và lời đầu tiên của bài giảng đầu tiên, Đức Giê-su ngỏ với đám đông và các môn đệ là “Phúc thay…”, thay vì là lời cấm đoán[1], một mệnh lệnh, một lời lên án, hay một lời chúc dữ. Trong cầu nguyện, chúng ta không cần suy niệm hết các mối phúc, chúng ta hãy dừng lại mối phúc nào chúng ta thích nhất, ấn tượng nhất, mời gọi nhất, chất vấn nhất, bởi vì đó chính là dấu chỉ của biến cố: hạt giống rơi vào chỗ đất tốt.
Chúng ta thường hiểu các mối phúc mà Đức Giê-su công bố là lý tưởng vừa cao vừa khó, mà mỗi người chúng ta phải đạt được để trở nên thánh, giống như các thánh nam nữ chúng ta mừng kính hôm nay. Tuy nhiên, các mối phúc không ở bên ngoài chúng ta và cũng ở cách xa chúng ta, nhưng các mối phúc mà Đức Giê-su công bố lại diễn tả chính căn tính đích thật của chúng ta, chính niềm khát khao sâu thẳm của chúng ta, chính niềm hạnh phúc bền vững của chúng ta.
- Thật vậy, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó. Trong thân phận của con người, không ai trong chúng ta cảm thấy tự đủ trong cõi lòng mình; con người đến một lúc nào đó, đều cảm thấy mình nhỏ bé, mỏng manh, chóng qua, nghèo nàn tận căn về mọi phương diện, nhất là lúc mới sinh ra và sắp sửa lìa đời, trả lại sự sống cho Chúa.
- Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai hiền lành”. Con người chúng ta vốn là hiền lành, chứ không phải là bạo lực hay thú tính; và sự hiền lành này đã được gieo nơi bản tính sâu xa của con người chúng ta; đó là điều mà chúng ta gọi là nhân tính. Bởi vì, con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa; mà Thiên Chúa thì hiền lành, vì Ngài là tình yêu.
- Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai sầu khổ”. Ai trong chúng ta đã không một lần khóc lóc sầu khổ: khóc lóc sầu khổ cho thân phận sinh lão bệnh tử của mình, khóc cho số phận đầy thử thách, tai ương và bất hạnh, khóc và sầu khổ cho người khác, nhất là cho những người thân yêu, cho những người chịu thiệt thòi, bệnh tật, kém may mắn.
- Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai khao khát nên người công chính”. Và ở trong sâu thẳm của tâm hồn, tất cả chúng ta đều khao khát nên công chính, thay vì ở trong sự bất chính, để có thể đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban. Nhưng rốt cuộc thì chính Thập Giá Đức Ki-tô làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, bởi vì chúng ta không thể tự mình làm cho mình trên nên công chính được.
Và cũng như thế đối với các mối phúc còn lại. Như vậy, chính thân phận con người của chúng ta, không thêm và cũng không bớt là một mối phúc, chứ không phải là mối họa, hay hình phạt, cho dù chúng ta có một thân phận như thế nào, bất hạnh như thế nào; thân phận của chúng ta là con đường dẫn chúng ta đến điều Chúa hứa ban trong các mối phúc, đó là: Nước Trời, Đất Hứa, ơn an ủi, ơn công chính, lòng thương xót và chính ngôi vị Thiên Chúa. Và để cho chúng ta tin tưởng và xác tín như thế, Đức Giê-su đã sống đến cùng thân phận con người, là chịu đóng đinh trên Thập Giá, để qua đó đi vào sự sống mới, sự sống Phục Sinh của Thiên Chúa Cha.
Và để hiểu thật đúng và thật sâu những lời này của Chúa, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm chính cách hiện hữu của Chúa: Chúa nghèo thế nào trong tinh thần? Chúa hiền lành như thế nào? Chúa khóc lóc như thế nào: “Thiên Chúa của con, Thiên Chúa của con, Tại sao Ngài đã bỏ rơi con ? (Mt 27, 46); “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Dt 5, 7). Và Đức Giê-su đói và khát sự công bình như thế nào? Vì Ngài đem sự công chính của Thiên Chúa đến cho con người, và Ngài mong mọi người đón nhận; và Ngài là sự công chính của Thiên Chúa.
Qua các mối phúc, Đức Giê-su qua lời nói và hành vi của Ngài, qua cách Ngài sống với Thiên Chúa và với con người, qua cách Ngài tương quan với thực tại, Ngài dẫn chúng ta về cái chúng ta là. Và cái chúng ta là, chính là một mối phúc. Ngược hẳn với điều loài người chúng ta vẫn nghĩ: điều chúng ta là, là một hình phạt. Và những gì Chúa hứa, chúng ta được mời gọi cảm nghiệm ngay hôm nay rồi.
b. Niềm vui và hạnh phúc
Khi sống các mối phúc, chúng ta được hứa ban Nước Trời, Đất hứa, ơn an ủi, lòng thương xót, được thấy Thiên Chúa và làm con Thiên Chúa. Nhưng vì các mối phúc không phải là những điều xa vời, cao siêu mà chúng ta phải cố vươn tới, nhưng diễn tả bản chất đích thật của con người, Vì thế, khi sống các mối phúc, chúng ta đã có kinh nghiệm ngay bây giờ niềm vui và hạnh phúc rồi. Thậy vậy:
- Hạnh phúc biết bao, người nghèo khó trong tim, thay vì đầy những quyến luyến.
- Hạnh phúc biết bao người hiền lành, thay vì dữ tợn.
- Hạnh phúc biết bao người khóc thương, vì đồng cảm với người khác, thay vì dửng dưng vô cảm.
- Hạnh phúc biết bao người xót thương và bao dung, thay vì không lên án và không khoan nhượng.
- Hạnh phúc biết bao người có lòng trong sạch, thay đầy những điều nhơ uế.
- Hạnh phúc thay người phục vụ cho công bình và hòa giải, thay vì chuyên làm những điều bất chính và gây hấn.
- Hạnh phúc thay người đi theo Đức Ki-tô vì lòng mến, bất chấp khó khăn và bách hại, thay vì coi mình là trung tâm và chỉ biết sống cho mình.
Như thế, các mối phúc không chỉ nói cho chúng ta về hạnh phúc và phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban ở đời sau, nhưng còn trình bày cho chúng ta một cách cách sống mang lại cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc ngay bây giờ, vì đó là lối sống phù hợp cách xâu xa với nhân tính của chúng ta.
3. Mối phúc đặc biệt (c. 11-12)
Ngoài Tám Mối Phúc, còn có một mối phúc đặc biệt ; đặc biệt, vì là mối phúc cuối cùng và được nói ở ngôi thứ hai “anh em”, diễn tả tương quan trực tiếp giữa Đức Giê-su và những người nghe, hôm qua cũng như hôm nay. Nhưng đặc biệt nhất là nguyên nhân của mối phúc: đó là “vì Thầy”. Chúng ta cần tự hỏi, “vì Thầy” có nghĩa là gì? Tại sao lại « vì Thầy » ? “Vì Thầy”, chúng ta thường chỉ hiểu ở mức độ thi hành sứ mạng, hay thực hiện một công việc mà chúng ta được giao phó, hoặc thực hiện một lựa chọn mà chúng ta xác tín là của Đức Kitô, hay xác tín là phù hợp với Tin Mừng của Ngài. Tuy nhiên, tại sao chúng ta lại thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu, tại sao chúng ta lại tìm thi hành ý Chúa ? Kinh nghiệm của các thánh nam nữ sẽ giúp chúng ta tại sao lại « vì Thầy ».
Đó chính là kinh nghiệm hiểu biết, yêu mến, và không chỉ ước ao đi theo, nhưng còn muốn trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, là kinh nghiệm chiêm ngắm ngôi vị của Ngài, và khi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài như các Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chúng ta không thể không yêu mến Ngài và ước ao trở nên một với Ngài như các Thánh Nam Nữ. Như thế, đây chính là mối phúc được trở nên giống Đức Giêsu cách trọn vẹn, cả trong cách sống lẫn trong thân phận bị loại trừ, và cả ở trong niềm vui nữa: “anh em hãy vui mừng hớn hở”.
*  *  *
Đặt mối phúc đặc biệt này trong tương quan với tám mối phúc khác và trong tương quan với cả Bài Giảng Trên núi, chúng ta cũng nhận ra rằng Đức Giê-su công bố điều Ngài là: Ngài có tâm hồn nghèo khó, Ngài hiền lành, Ngài sầu khổ… Vì thế, để hiểu và sống lời của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài, và khi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài như các Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chúng ta không thể không yêu mến Ngài và ước ao trở nên một với Ngài như các Thánh Nam Nữ.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
_________
[1] Con rắn trong sách Sáng Thế, chương 3, hình ảnh của Ma Quỉ, nói với người phụ nữ: “Có thật THIÊN CHÚA nói: các người KHÔNG ĐƯỢC…” (St 3, 1); trong khi THIÊN CHÚA nói: “các người ĐƯỢC…” (St 2, 16). THIÊN CHÚA, ĐẤNG BAN ƠN, nhưng ma quỉ, và những người tiếp tay cho ma quỉ, ý thức hay không ý thức, lại muốn gieo vào lòng chúng ta hình ảnh của một THIÊN CHÚA CÂM ĐOÁN. Như thế, Đức Giê-su đến để điều chính hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa, mà ma quỉ đã gieo vào tâm hồn loài người chúng ta, từ thủa ban đầu của sự sống: nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa ban ơn, ban lời hằng sống và trao ban chính mình.

Posted By Đỗ Lộc Sơn17:28

Ơn gọi nên thánh của chúng ta

Filled under:

Kinh Truyền TinQuảng trường Thánh Phêrô
Thứ Ba, Lễ các Thánh nam nữ, 1/11/2011
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ trọng kính các Thánh nam nữ là một dịp thuận tiện để đưa mắt ra khỏi những thực tại trần thế, được đánh dấu bằng thời gian, để hướng về chiều kích của Thiên Chúa, chiều kích của vĩnh cửu và thánh thiện. Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta  sự thánh thiện là ơn gọi đầu tiên của mỗi người đã chịu phép rửa tội (x. Lumen gentium, s. 40). Quả thật, Đức Kitô, Đấng, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, là Đấng Thánh duy nhất (x. Kh 15,4), đã yêu mến Giáo Hội như hiền thê của mình và đã hiến mình cho Giáo Hội, để thánh hoá Giáo Hội (x. Ep 5,25-26). Chính vì lý do này mà mọi thành viên của Dân Chúa đều được mời gọi trở nên thánh, thể theo lời khẳng định của Tông đồ Phaolô: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1Th 4,3). Do đó, chúng ta được mời gọi nhìn Giáo Hội không chỉ trong khía cạnh thời gian và con người của Giáo Hội, được đánh dấu bằng tính mỏng giòn, mà còn nhìn Giáo Hội theo như ý muốn của Đức Kitô, nghĩa là trong “sự hiệp thông của các thánh” (Giáo lý của Giáo hội Công giáo, s. 946). Trong kinh Credo [Tin kính], chúng ta tuyên xưng Giáo Hội  “thánh thiện”, thánh thiện với tư cách là Thân mình của Đức Kitô, một công cụ để tham dự vào những Mầu nhiệm thánh - trước tiên là Thánh Thể - và với tư cách là gia đình của các Thánh, mà trong ngày rửa tội, cộng đoàn dâng chúng ta cho gia đình này bảo vệ. Ngày hôm nay, chúng ta tôn kính cộng đoàn đông đảo các Thánh, là những người, qua những con đường sống khác nhau của mình, đã chỉ cho chúng ta những con đường nên thánh khác nhau, được liên kết trong cùng một mẫu số chung, đó là đi theo Đức Kitô và khuôn đúc cuộc đời chúng ta theo Người, là mục đích tối hậu của những biến cố trong đời chúng ta. Quả thật, mọi giai đoạn sống có thể trở nên những con đường nên thánh, nhờ tác động của ân sủng, nhờ sự dấn thân kiên trì của mỗi người.
Ngày mai, 2-11, được dành riêng để tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời, sẽ giúp chúng nhớ đến những người thân yêu đã từ giã chúng ta và tất cả những ai trong cuộc hành trình hướng về đời sống viên mãn, những người của Giáo Hội trên Thiên quốc, mà ngày lễ trọng hôm nay hướng tâm hồn chúng ta về đó. Ngay từ những thời gian đầu của đức tin Kitô giáo, Giáo Hội trần thế nhận ra sự hiệp thông trong nhiệm thể Đức Giêsu Kitô, nên với lòng tôn trọng sâu xa, đã sốt sắng tưởng nhớ những tín hữu qua đời và dâng lễ cầu nguyện cho họ. Do đó, lời cầu nguyện của chúng ta dành cho tín hữu đã qua đời không những có ích mà còn cần thiết nữa, bởi vì không những lời cầu nguyện của chúng ta có thể giúp đỡ họ, nhưng đồng thời cũng làm cho lời họ bầu cử  cho chúng ta được trở nên hữu hiệu (x. Giáo lý của Giáo hội Công giáos. 958). Việc đi viếng nghĩa trang, ngoài việc duy trì những mối dây yêu thương đối với những ai đã yêu mến chúng ta trong cuộc đời này, cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng tất cả chúng ta đang hướng về một cuộc sống khác bên kia cái chết. Ước gì những giọt lệ khóc thương người thân đã qua đời sẽ không được làm giảm đi niềm tin vào sự sống lại, giảm đi niềm hy vọng đạt được hạnh phúc vĩnh cửu, “giây phút được hoàn toàn thoả mãn, khi mà cái toàn thể ôm lấy chúng ta và khi chúng ta ôm lấy cái toàn thể” (Spe salvi - Được cứu rỗi trong niềm hy vọng -, s. 12). Đối tượng hy vọng của chúng ta là vui mừng có Chúa hiện diện mãi mãi. Đức Giêsu đã hứa như thế cho các môn đệ của mình khi Người phán: “Thầy sẽ lại gặp các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và sự vui mừng của các con sẽ không ai cướp đi được” (Ga 16,22).
Hãy phó dâng cuộc lữ hành hướng về quê trời cho Đức Trinh Nữ Maria, là Nữ Vương các Thánh, khi chúng ta cầu xin Ngài lấy tình Mẹ hiền mà cầu thay nguyện giúp cho những anh chị em chúng ta đã qua đời.

Posted By Đỗ Lộc Sơn16:11

Đạo đức thật và đạo đức giả

Filled under:


Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
 
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
 
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
 
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
 
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
 
Chúng ta còn thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đã kể.
 
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
 
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
 
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
 
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
 
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
-         Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con …
 
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
-         Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
 
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
-         Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
 
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.

Posted By Đỗ Lộc Sơn16:04

Giọt Thu Sầu Thánh Đức

Filled under:

Tháng Mười Một lại về, về giữa mùa Thu, “điểm báo” cuối năm, nhắc nhớ sự chết, nhắc nhớ về “cuộc hẹn” bất ngờ với một người mà chúng ta không hề mong đợi: Tử Thần.
Tháng Mười Một là Tháng Cầu Hồn: Buồn! Cầu hồn là cầu cho người đã khuất: Buồn! Cầu hồn là khoảng trăm nhớ ngàn thương: Buồn! Tháng Mười Một lại trùng với khoảng thời gian mùa Thu: Buồn! Một chuỗi buồn không sắc không màu mà vẫn khả dĩ cảm thấy vẻ ảm đạm!
Theo dòng thời gian, những hạt buồn cứ nối kết với nhau, những giọt buồn cứ hòa tan vào nhau, những nỗi buồn cứ đan quyện vào nhau...
Với tâm trạng đó, trong khổ cuối của bài thơ “Chợt”, một tác giả đã bất ngờ để rơi một nốt trầm da diết:
Chợt tiếng mưa lảnh lót tựa tiếng chim
Lạc vào Thu tình chiêm bao nửa giấc
Từng lá vàng úa nỗi buồn hốc hác
Trăm năm dài chợt ngắn chỉ gang tay!
Nỗi buồn rất lạ nếu nỗi buồn đó “lạc” vào mùa Thu. Trong ca khúc “Thu Sầu”, Nhạc sĩ Lam Phương đã mô tả: “Mùa Thu thưa nắng gió mang niềm nhớ, trời chiều man mác buồn nát con tim...”. Mùa Thu luôn có màu nắng nhạt, nhất là vào buổi chiều, gợi lên niềm thương hoặc nỗi nhớ nào đó, khiến lòng người buồn man mác, nhưng chính nỗi buồn có vẻ nhẹ nhàng đó vẫn đủ sức giã nát con tim những ai đang mang niềm tâm sự. Tháng Mười Một, đối với người Công giáo, không ai lại không mang niềm tâm sự riêng, vì ai cũng có những người thân đã ra đi rất xa...!
Đời người trăm năm, tưởng dài mà ngắn quá, chưa làm được gì cho ra hồn mà đã sắp hết đời rồi! Nói đến cái chết thì luôn liên quan nỗi buồn, mà nói tới nỗi buồn thì thường liên quan nước mắt – dù nước mắt chảy ra ngoài hoặc nuốt vào trong. Triết gia Voltaire định nghĩa: “Nước mắt là ngôn ngữ câm lặng của nỗi đau buồn”. Vâng, nước mắt là ngôn ngữ thâm thúy của trái tim mà chúng ta không thể diễn tả bằng lời. Và Lord Byron gọi nước mắt là “giọt sương của lòng trắc ẩn”. Hay quá chừng!
Nước mắt rất bình thường mà cũng rất kỳ lạ. Đó là một dung dịch thể lỏng được tiết ra từ đôi mắt thông qua tuyến lệ. Về mặt sinh học, nước mắt là dung dịch dùng để làm lau sạch những bụi bẩn bám ở con ngươi, khi tuyến lệ tiết ra nước mắt để làm ướt và làm trôi các bụi bẩn khỏi mắt. Khi gặp hơi cay làm khô mắt, tuyến lệ tiết ra nước mắt để bảo vệ mắt.
Nước mắt còn có tác dụng đào thải một số hormone và protein “xấu” được sản sinh khi cơ thể bị căng thẳng. Nếu thi thoảng biết khóc, nước mắt có thể làm sáng mắt, nhưng khóc nhiều quá có thể khiến mù mắt. Sophia Loren nói: “Nếu bạn chưa từng khóc, đôi mắt bạn không thể đẹp”. Những đôi mắt ướt long lanh có sức thu hút mạnh. Tuy nhiên, nước mắt không hẳn là biểu hiện của nỗi buồn, mà có khi là biểu hiện của niềm vui: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm “Cây Thông” của Nguyễn Công Trứ).
Tháng Mười Một có thể gọi là Tháng Nước Mắt, Tháng Thương Nhớ, Tháng Thu Sầu, nhưng với những người có niềm tin Kitô giáo, nỗi buồn đó không hề bi quan, không hề tuyệt vọng, mà luôn đầy ắp niềm yêu thương và hy vọng. Vì thế, Tháng Mười Một trở thành Tháng Hy Vọng, có thể gọi Tháng Mười Một là Giọt Thu Sầu Thánh Đức.
Trong ca khúc “Giọt Lệ Sầu” của Nhạc sĩ Lam Phương tâm sự: “Lời thề nguyện muôn năm sau anh vẫn nhớ, nụ cười này, đôi mắt đó làm sao quên...”. Ở đây, chúng ta hiểu ý nghĩa theo định hướng Kitô giáo chứ không theo ý nghĩa trần tục. Người chết luôn nói thật, họ trăn trối chân thành vì họ biết họ không còn dịp để nói nữa. Chẳng ai có thể quên được lời trăn trối của người thân. Vâng, di ngôn luôn quý giá và đáng trân trọng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đã để lại di ngôn tuyệt hảo và vô giá đối với nhân loại.
Phàm nhân yếu đuối lắm, thế nên luôn cần phải nỗ lực không ngừng. Sống rất cần sự mạnh mẽ tinh thần để có đủ can đảm vượt qua nghịch cảnh. Thật vậy, chúng ta phải biết nhìn lại những giọt nước mắt có thể khiến chúng ta mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười có thể khiến chúng ta bật khóc.
Theo sinh học bình thường, nước mắt cũng đã là loại hợp chất rất kỳ lạ, đặc biệt là chất mỡ oleamide rất cần cho mắt. Nước mắt rất trong, rất nóng, rất mặn,... Về tâm linh, nước mắt còn kỳ diệu hơn nhiều. Thánh Phaolô cũng đã từng có ấn tượng sâu sắc vì giọt nước mắt của người khác: “Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ước ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui” (2 Tm 1:4). Nước mắt còn kỳ diệu hơn như thế: Một nữ tội nhân đã dùng những giọt nước mắt để làm trôi đi bao tội lỗi của mình (x. Lc 7:36-40).
Có khổ mới cần khóc. Có khóc mới cần cười. Có cười mới thỏa vui. Vui nghĩa là hết khổ, là sung sướng, là hạnh phúc. Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6). Với kinh nghiệm đã có, tác giả Thánh Vịnh vừa tâm sự vừa chia sẻ: “Tôi lang thang như người khóc mẹ, tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi” (Tv 35:14).
Chắc hẳn chúng ta cũng đã từng hơn một lần như vậy. Các linh hồn nơi Luyện Hình cũng đang có tâm trạng đau khổ lắm, nhưng họ chẳng làm được gì cho mình nữa, họ rất cần chúng ta, những người còn sống trên trần gian. Chúng ta hy sinh và cầu nguyện cho họ càng nhiều và càng chân thành thì họ càng mau được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa. Họ đã thoát Hỏa Ngục, chắc chắn được trở thành thánh nhân bên Thiên Chúa hằng sống đời đời. Và rồi Thiên Chúa sẽ “lau sạch nước mắt” trên khuôn mặt của họ, những người đã từng chịu đựng gian truân đau khổ và cùng chết với Đức Kitô, chính Thiên Chúa sẽ “dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7:17). Cuối cùng, họ sẽ chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất (Kh 21:4).
Với niềm tin “xác loài người sẽ sống lại”, chúng ta hãy biến Giọt Thu Sầu của Tháng Mười Một trở thành Giọt Hy Vọng và Giọt Thánh Đức trong tình liên đới “các thánh thông công”.
Kinh Thánh cho biết: “Ông Giu-đa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12:43-46).
Requiescat in Pace – Xin cho các Linh Hồn được nghỉ yên muôn đời!
Da mihi animas, coetera tolle – Xin cho tôi các linh hồn, còn mọi sự khác cứ lấy đi (Don Bosco).
Laudetur Jesus Christus – Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.
TRẦM THIÊN THU

Lễ các Đẳng – 2014

Posted By Đỗ Lộc Sơn01:42